Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020

0
71

Tại buổi công bố báo cáo Kinh tế vĩ mô quý III/2020 và 9 tháng năm 2020 Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày 21/10, VEPR nhận định, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020 phụ thuộc vào khả năng khống chế dịch Covid-19 không chỉ trong nước mà còn trên thế giới.

Việt Nam hiện đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. (Nguồn: Zing)

Công bố báo cáo, Kinh tế trường VEPR PGS.TS. Phạm Thế Anh cho biết, có hai kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020.

Kịch bản thứ nhất, nếu bệnh dịch sẽ không tái bùng phát trong nước trong thời gian còn lại của năm và hoạt động kinh tế nội địa dần trở lại bình thường. Trong khi đó, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới có thể tái xuất hiện cục bộ trên quy mô nhỏ ở một số quốc gia. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 2,6-2,8%.

Kịch bản thứ hai, nếu bệnh dịch trong nước vẫn được khống chế hoàn toàn trong thời gian còn lại của năm và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới tái bùng phát mạnh, các nước phải tái áp dụng các biện pháp phong tỏa trong quý IV/2020 dẫn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng và không có khả năng hồi phục trong năm 2020. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 1,8-2,0%. Tuy nhiên, nếu dịch Covid-19 bùng phát trở lại trong nước trong quý IV/2020, thì các nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề.

PGS.TS. Phạm Thế Anh nhận định, triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 phụ thuộc vào khả năng khống chế dịch bệnh không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng trong phần còn lại của năm bao gồm kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất Hiệp định Thương mại tự do và Bảo hộ Đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA và EVIPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh như mong đợi.

Cùng với đó là chi phí nguyên nhiên vật liệu duy trì ở mức thấp do suy giảm nhu cầu tiêu thụ và sản xuất; làn sóng dịch chuyển đầu tư nhằm phân tán rủi ro từ thương chiến Mỹ – Trung Quốc và tận dụng các ưu đãi đầu tư tại Việt Nam.

Tuy vậy, theo PGS. TS Phạm Thế Anh, Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. Sự tái bùng phát của dịch Covid-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa có thể kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng. Xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ.

Bên cạnh đó, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, bị chững lại; sức khỏe hệ thống ngân hàng – tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực đầu tư nước ngoài, thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước bị ngưng trệ, môi trường và thể chế kinh doanh chất lượng còn thấp.

Vì vậy, ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động. Các chính sách an sinh xã hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và cần phải được tiếp tục triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.

PGS. TS Phạm Thế Anh cho biết, việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực phi chính thức bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ. Trong các phương án có thể, thì cần ưu tiên cắt giảm kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) để giảm chi phí cho doanh nghiệp.

“Việc giãn/giảm thuế, nếu có, chỉ nên được áp dụng với thuế VAT thay vì thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), vì giảm thuế TNDN chỉ hỗ trợ được số ít doanh nghiệp không bị ảnh hưởng hoặc đang hưởng lợi từ các tác động của dịch bệnh, chứ không giúp được đa số các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Từ đó, việc giảm thuế TNDN còn có nguy cơ tạo ra bất bình đẳng sâu sắc hơn trong môi trường kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến việc phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19”, PGS. TS Phạm Thế Anh nói.

Theo VEPR, tính từ đầu năm tới hết tháng 9/2020, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần hạ các công cụ lãi suất điều hành. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỷ đồng vẫn đang được các ngân hàng thương mại triển khai.

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Thành cho hay, về chính sách tài khóa, từ đầu năm cho tới nay, bên cạnh gói hỗ trợ trị giá 62.000 tỷ với người lao động, doanh nghiệp khó khăn vì dịch Covid-19, các biện pháp hỗ trợ về mặt pháp lý cũng được ban hành để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh như gia hạn nợ, giảm lãi vay, không phân loại lại nhóm nợ, giảm phí.

Điều đáng lo ngại nhất hiện nay là khả năng giải ngân các gói cứu trợ xã hội, do mạng lưới thực thi kém hiệu quả và thủ tục hành chính phức tạp, khó tiếp cận. Vì vậy, việc thiết kế lại kế hoạch thực thi chính sách rất cần thiết để các gói cứu trợ thực sự có hiệu quả.

“Gói cứu trợ lần hai ở thời điểm này là không cần thiết, bởi khi gói cứu trợ lần một còn chưa được giải ngân một cách hiệu quả thì việc đưa ra gói cứu trợ lần hai chỉ mang tính dân túy, đồng thời nhiều khả năng chỉ gây thêm gánh nặng cho ngân sách thay vì thực sự tạo được ảnh hưởng tích cực trong nền kinh tế và xã hội”, báo cáo do VEPR cho hay.

Gia Thành

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here