Những giải pháp ưu tiên thực thi để kinh tế tư nhân phát triển đúng với tiềm năng

0
405
khu vực kinh tế tư nhân ngày càng trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

Cần có những đột phá quan trọng và thực chất nhằm gạt bỏ những rào cản và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển và phát huy vai trò chủ công của mình trên hành trình hiện đại hóa đất nước.

Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

Nhận diện quy mô và vị thế kinh tế tư nhân Việt Nam

Những năm gân đây, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Năm 2018, đầu tư khu vực tư nhân tăng 18,5% so với năm trước, chiếm tới 43,3 % tổng đầu tư xã hội (tính theo giá hiện hành ước tính đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước và bằng 33,5% GDP); Vốn khu vực Nhà nước đạt 619,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,3% tổng vốn và tăng 3,9% so với năm trước; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 434,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,6%. Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực trong nước đạt 17%, cao hơn mức 14% của khu vực FDI; Ngoài khoảng gần 21,2 nghìn hợp tác xã và 61 liên hiệp hợp tác xã, trong đó có 13 nghìn hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thu hút 6,4 triệu thành viên tham gia, cả nước có 131.275 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 11,3 tỷ đồng, tăng 10,2%. Ngoài ra, có 2.408,8 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp; có 34.010 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 28,6% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm nay lên gần 165,3 nghìn doanh nghiệp (trong khi đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2018 là 90.651 doanh nghiệp, tăng 49,7% so với năm trước; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục phá sản là 16.314 doanh nghiệp, tăng 34,7%).

Khu vực doanh nghiệp trong nước trong ba tháng đầu năm 2019 có 3 điểm tích cực mới nổi bật so với cùng kỳ năm trước, đó là: Sự gia tăng số doanh nghiệp quay lại hoạt động, số vốn tăng thêm của các doanh nghiệp và số việc làm mới do các doanh nghiệp mới đăng ký tạo ra. Cả nước có 28.451 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (tăng 6,2%), với tổng vốn đăng ký là 375,5 nghìn tỷ đồng (tăng 34,8%); Đặc biệt, có tới 722,5 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp; có 15.050 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 78,1% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong quý I/2019 lên hơn 43,5 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong quý I/2019 là 317,6 nghìn người, tăng 40,9% so với cùng kỳ năm trước.

Đặc biệt, ngay từ đầu năm 2019 đã có hàng chục triệu USD rót vào các startup Việt và nhiều dự án đặt mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường, cũng như đoạt nhiều phần thưởng quốc tế (Logivan – startup Việt chuyên về lĩnh vực vận tải huy động thành công 5,5 triệu USD; Luxstay- ứng dụng đặt phòng nhận thêm 3 triệu USD; Sản phẩm chatbot Việt Nam lọt vào top 80 và hiện chạy đua cho top 24 chung cuộc trong trong cuộc thi GIST Tech-I (Mỹ). Startup giám sát chất lượng không khí Việt Nam ứng dụng công nghệ Internet kết nối vạn vật (IoT) và Học máy (Machine Learning) đã vượt qua hơn 250 giải pháp công nghệ và nhiều vòng thi từ khu vực Đông Nam Á đến châu Á trong tranh giải IBM toàn cầu).

Tuy nhiên, trong quý I, cả nước vẫn có 14.761 doanh nghiệp (tăng 20,8% so với cùng kỳ năm trước) doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và 4.116 doanh nghiệp (tăng 23,9%) hoàn tất thủ tục giải thể; Tổng số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động và giải thể cao hơn số doanh nghiệp quay lại hoạt động cho thấy  khu vực doanh nghiệp còn không ít khó khăn; dù có tới ¾ số doanh nghiệp được khảo sát trả lời tình hình kinhd oanh quý 1-2019 là ổn định và tốt lên, cũng như chỉ có 10% doanh nghiệp trả lời tình hình kinh doanh quý II-2019 sẽ khó khăn hơn.

Cộng đồng kinh tế tư nhân hiện có hơn 700.000 doanh nghiệp, với với 96% doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn, cùng một số công ty tư nhân, công ty cổ phần lớn, có thương hiệu mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế, sử dụng chưa đến 30% diện tích đất kinh doanh cả nước, nhưng hiện chiếm trên 51% lực lượng lao động, đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và 30% ngân sách nhà nước (NSNN) cả nước …

Kinh tế Việt Nam muốn phát triển vững mạnh không thể thiếu khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) trong nước tăng trưởng hiệu quả và lớn mạnh. Thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước mà chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân cả về số lượng và chất lượng phải là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp. Sức khỏe của doanh nghiệp trong nước chính là sức khỏe của nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp và người dân, phấn đấu cả nước có trên 1 triệu doanh nghiệp đăng ký vào năm 2020, trong đó có nhiều doanh nghiệp trưởng thành và phát triển, vươn ra tầm khu vực và thế giới.

Hành trình 30 năm đổi mới Việt Nam đã ghi nhận nhiều hay đổi cơ bản về chính sách hỗ trợ và diện mạo khu vực KTTN. Cùng với những điều chỉnh nhận thức và cải thiện thể chế KTTT, thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, khu vực KTTN từ bị phủ định và kiểm soát chặt chẽ trong mô hình kinh tế tập trung bao cấp, đã và đang từng bước hồi sinh và phát triển mạnh mẽ, ngày càng gia tăng về lượng, mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình tổ chức và lan tỏa ngày càng sâu, rộng về phạm vi, lĩnh vực kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và ngày càng trở thành động lực quan trọng, đóng góp ngày càng to lớn vào công cuộc CNH-HĐH, khẳng định tính tự chủ của nền kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Thông điệp mới bao trùm là quyết tâm đổi mới tư duy tạo sức bật mới cho phát triển KTTN nói chung trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, đầy đủ hơn trên tinh thần kiến tạo, giải phóng sức sáng tạo và phát huy toàn diện vai trò của doanh nghiệp, khu vực tư nhân trong mọi công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất; tạo cơ hội cho doanh nghiệp, nhà đầu tư có sự lựa chọn và phản ứng nhanh nhậy, đáp ứng hiệu quả hơn với các tín hiệu thị trường, chủ động đổi mới, thích ứng và tập trung vào sản xuất cái mà xã hội, kể cả trong nước và nước ngoài đang cần; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, chế biến sâu, trên cơ sở phát huy lợi thế tự nhiên sẵn có gắn với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, có thương hiệu quốc gia đại diện tiêu biểu, góp phần hình thành nên một diện mạo mới cả về kinh tế và vị thế trên thị trường quốc tế của Việt Nam trong những thập niên tới…

Những đột phá chính sách cần ưu tiên để phát triển kinh tế tư nhân

Thực tiễn cũng chứng tỏ, khu vực KTTN Việt Nam còn phát triển dưới mức tiềm năng và cũng chưa thực sự hiệu quả. Bởi vậy, cần có những đột phá quan trọng và thực chất nhằm gạt bỏ những rào cản và thúc đẩy khu vực KTTN phát triển và phát huy vai trò chủ công của mình trên hành trình hiện đại hóa đất nước:

Thứ nhất, xóa bỏ những định kiến về thành phần kinh tế nói chung, về KTTN nói riêng, tăng cường tự do hóa và giảm thiểu chi phí không chính thức trong kinh doanh phải trở thành khâu đột phá trong nhận thức và cơ sở pháp lý cho sự phát triển KTTN tương lai.

Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business 2019) vừa được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố (dựa trên khảo sát 10 chỉ số: Nộp thuế, Tiếp cận điện năng, Tiếp cận tín dụng, Cấp phép xây dựng, Bảo vệ nhà đầu tư, Giải quyết tranh chấp hợp đồng, Khởi sự kinh doanh, Đăng ký sở hữu tài sản, Giao dịch thương mại qua biên giới, Giải quyết phá sản doanh nghiệp), trong năm 2018 Việt Nam đạt 68,36 điểm, cao hơn 1,59 điểm trong Doing Business 2018 (66,77 điểm) và có 6/10 chỉ số môi trường đầu tư được cải thiện (Chỉ số nộp thuế và bảo hiểm xã hội; Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư; Khởi sự kinh doanh; Tiếp cận tín dụng và Cấp phép xây dựng); được WB công nhận đã thực hiện 3 cải cách (thực thi hợp đồng, trả thuế và thành lập doanh nghiệp) trong năm 2018 và đứng đầu Đông Nam Á vì thực hiện 18 cải cách trong 5 năm qua, ngang với mức của Inđônêxia:

Đặc biệt, Việt Nam đang đối diện xu hướng mất dần lợi thế giá nhân công rẻ và suy giảm một số ngành truyền thống (khai khoáng); gia tăng áp lực thất nghiệp sau tuổi 35 của lao động (nhất là ngành dệt may và da giày) trước làn sóng công nghệ 4.0. Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động Việt Nam hiện chỉ bằng 4,4% của Singapore và 17,4% của Malaysia, và tốc độ tăng lương bình quân đang vượt tốc độ tăng năng suất lao động. Năng suất vốn của Thái Lan là trên 700%, của Trung Quốc và Ấn Độ gần 300% và của Nga là 300%, trong khi của Việt Nam chỉ khoảng 160%. Tiền công và tiền lương của doanh nghiệp trung vị Việt Nam ở mức khoảng 2.739 USD/lao động, tức cao gấp đôi so với Lào, Myanmar, Malaysia và cao hơn khoảng 30-45% so với Campuchia, Thái Lan, Philippines.

Năm 2018, các bộ, ngành đã cắt giảm 6.776/9.956 thủ tục hành chính liên quan đến kiểm tra chuyên ngành và cắt giảm 3346/6191 điều kiện kinh doanh. Qua đó, giảm hơn 17.500.000 ngày công, tiết kiệm hơn 6.279 tỷ đồng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Song, như Thủ tướng yêu cầu, việc cắt, giảm các điều kiện kinh doanh cần thực chất hơn; cần hoàn thiện nhanh hơn các thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng, thương hiệu và tài sản công ty; sớm điều chỉnh các quy định về thuế phù hợp Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) để hỗ trợ DNNVV đổi mới, sáng tạo…

Đại diện ngân hàng Thế giới tại Việt Nam vừa có thông điệp khuyến cáo: Không thể đón bắt cơ hội và vượt qua thách thức của cách mạng CN 4.0 với bộ máy quản lý nhà nước 1.0. Sự đổi mới sáng tạo không chỉ cần cho khu vực sản xuất kinh doanh, mà còn cần được triển khai đồng bộ và toàn diện trong toàn xã hội, cả đối với hệ thống hành chính nhà nước.

Phát triển KTTN là biện pháp cơ bản quan trọng để xây dựng và hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Với tinh thần đó, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII nhấn mạnh “tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”; “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán NSNN năm 2016 chỉ rõ “Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa; bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng”; “hình thành và từng bước phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp như vườn ươm doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, dịch vụ đào tạo, tư vấn hỗ trợ khởi nghiệp” để phát triển doanh nghiệp nội địa”…

Động lực thể chế mạnh mẽ mới và cũng là giải pháp quan trọng hàng đầu năm 2019 là nỗ lực triển khai Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019, với phương châm: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả, bứt phá” mà Chính phủ đề ra, hướng tới mục tiêu tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trước mắt, tập trung cải thiện môi trường đầu tư; tháo gỡ một cách thực chất hơn những ách tắc, rào cản đối với các hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh; khuyến khích đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến; phát huy tinh thần vừa hợp tác liên kết chặt chẽ, vừa cạnh tranh bình đẳng theo nguyên tắc thị trường ngày càng đầy đủ; tuân thủ các nguyên tắc, thông lệ và cam kết hội nhập quốc tế; xây dựng văn hóa kinh doanh và văn hóa quản lý, gắn kết và hợp tác cộng đồng, kiểm soát giá độc quyền và tình trạng trốn lậu thuế, làm hàng giả.

Quá trình xóa bỏ những thể chế kìm hãm doanh nghiệp, điều chỉnh những thể chế làm lệch lạc, lãng phí các nguồn lực doanh nghiệp, lấp đầy những “khoảng trống thể chế” cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển lành mạnh, hiệu quả đã, đang và sẽ cho phép từng bước định hình một tầm nhìn mới, một thực tiễn mới và mở ra triển vọng phát triển mới với nhiều thay đổi về chất đối với vai trò, vị thế và cách thức tổ chức mới của khu vực KTTN trong toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội Việt Nam thời kỳ chuyển mình hội nhập cùng thế giới; Đó cũng là yêu cầu, áp lực và động lực tạo sức bật mới cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn của Việt Nam trong năm 2019 và thời gian tới.

Theo đó, cả trong nhận thức lý luận, chính trị và pháp lý quản lý nhà nước khu vực KTTN nói riêng, nền kinh tế nói chung, cần tuân thủ các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; đảm bảo sự tự do hoá ngày càng cao, đầy đủ và rộng rãi các lĩnh vực hoạt động kinh doanh cho phép khu vực KTTN tham gia. Đặt khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng bình đẳng với các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước về pháp luật và điều kiện tiếp cận, sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp trong sự cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật và nguyên tắc thị trường; xây dựng, triển khai các công cụ quản lý và hỗ trợ mới đối với khu vực KTTN, chuyển từ mục đích “quản chặt” sang “hỗ trợ” doanh nghiệp bằng định hướng chính sách, thông tin thị trường và những khuyến khích tài chính, cũng như tinh thần theo ngành, sản phẩm, địa bàn…, chứ không theo từng doanh nghiệp, dự án cụ thể hoặc tính chất sở hữu. Xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp công dân, hệ thống thông tin doanh nghiệp, hệ thống đăng ký thế chấp, cầm cố tài sản … được nối mạng nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất – kinh doanh, cũng như quản lý Nhà nước và phòng tránh, giảm thiểu các rủi ro tín dụng, kinh doanh, các hành vi vi phạm sở hữu thương hiệu, sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp và các vi phạm bản quyền, an ninh, trật tự an toàn văn minh thương mại  và thị trường khác. Tăng cường phân cấp quản lý kinh tế – xã hội  cho các cấp chính quyền địa phương theo phương châm: Việc nào mà cấp nào, đơn vị nào làm nhanh, hiệu quả nhất thì giao cho cấp đó, đơn vị đó đảm nhận. Thúc đẩy CCHC nhằm thống nhất, đơn giản hoá và hiện đại hoá các quy trình, thủ tục, công nghệ và tiêu chuẩn quản lý kinh tế – xã hội, trong đó có quản lý Nhà nước đối với khu vực KTTN tiếp cận với yêu cầu và trình độ quốc tế. Cải cách, tăng cường năng lực và hiệu lực của các định chế và chế tài, kinh tế, hành chính, cũng như bộ máy tư pháp quốc gia và địa phương nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích Nhà nước, lợi ích doanh nghiệp, doanh nhân và người lao động, phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động kinh tế – xã hội do quá trình thúc đẩy phát triển KTTN và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra; Khen thưởng kịp thời và tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá nhân có thành tích tiêu biểu trong quản lý và phát triển KTTN.

Trước mắt tập trung rà soát lại toàn bộ các thể chế, các quy định pháp luật, đảm bảo cả tiến độ và chất lượng luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật; tháo gỡ một cách thực chất hơn những ách tắc, rào cản đối với các hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh; khắc phục tệ nhũng nhiễu, chậm trễ trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên, xây dựng, bảo vệ môi trường, tiếp cận thị trường, các nguồn lực và các dự án đầu tư; tăng cường bảo vệ doanh nghiệp và đề cao năng lực, trách nhiệm và kỷ luật công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; khơi dậy niềm tự hào, khát vọng dân tộc, niềm tin và sự đồng thuận xã hội, hợp lực phấn đấu vì sự hưng thịnh chung của đất nước…

Phát triển đồng bộ và lành mạnh các loại thị trường, nhất là các thị trường hàng hoá, dịch vụ thiết yếu và thị trường các yếu tố sản xuất như: thị trường tài chính – tiền tệ, thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản, thị trường điện… để bảo đảm cung cầu trên thị trường và các cân đối lớn của nền kinh tế, đặc biệt là cân đối thu chi ngân sách nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, giữ vững an ninh, an toàn kinh tế – tài chính – tiền tệ quốc gia. Tăng trưởng tín dụng đi đôi với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; đẩy mạnh bao phủ tín dụng, đẩy lùi tín dụng “đen”.

Tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo chuyển biến rõ nét hơn trong việc tháo gỡ một cách thực chất những ách tắc, rào cản đối với các hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh của người dân và các doanh nghiệp. Khắc phục tình trạng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật hoặc văn bản được ban hành có nội dung không rõ ràng, thiếu chuẩn xác; tệ nhũng nhiễu, chậm trễ trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên, xây dựng, bảo vệ môi trường, tiếp cận thị trường, các nguồn lực và các dự án đầu tư…

Đồng thời, cần không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách hiện hành để đảm bảo sực thích nghi nhanh chóng với các biến động thị trường và bối cảnh chung trong nước và quốc tế, bảo đảm tính khả thi của những giải pháp đề xuất trong thực tiễn, lấy sự phát triển nhanh KTTN và hiệu quả kinh tế – xã hội chung, sự cải thiện chất lượng sống mọi mặt của nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá tính đúng đắn của những cơ chế, chính sách được lựa chọn.

Thứ hai, sớm quy hoạch định hình và phát triển các liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị xuyên quốc gia và quốc tế.

Động lực mới cho phát triển doanh nghiệp được hội tụ và cộng hưởng từ gia tăng các chuỗi liên kết doanh nghiệp kiểu mới, khép kín, hài hòa lợi ích; xây dựng văn hóa doanh nghiệp gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường, xã hội và cộng đồng, môi trường lao động an toàn, thân thiện, và năng lực đổi mới, sáng tạo đủ sức vượt qua mọi rào cản kỹ thuật quốc gia và quốc tế, đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.

Nhà nước cần tìm tòi và nhân rộng các cách làm mới, đột phá hơn trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và kinh doanh; nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp, năng lực và trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp trong hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư cả trong và ngoài nước; Nới lỏng các quy định hạn điền và linh hoạt các cách thức thuê đất vừa tuân thủ đúng Luật Đất đai, bảo đảm lợi ích và quyền sở hữu ổn định của người dân, vừa thuận lợi cho doanh nghiệp an tâm đầu tư với thời hạn dài, cải thiện hiệu quả kinh doanh theo quy mô lớn, phát triển thị trường thứ cấp về đất kinh doanh; chú trọng hình thức Hợp tác công tư (PPP); Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội và các hiệp hội, nghề nghiệp  đối với khu vực KTTN, cũng như đối với từng doanh nghiệp, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh và văn hóa quản lý, thúc đẩy tinh thần tự trọng, tự tôn và tự hào dân tộc, gắn kết và hợp tác công đồng, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân, các “Công ty mẹ-con” và các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề phù hợp, hỗ trợ cho KTTN phát triển; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát độc quyền và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trốn lậu thuế, làm hàng giả trong sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, cần coi trọng phát triển các dịch vụ tư vấn, thông tin và dự báo thị trường, hỗ trợ kinh doanh; giảm thiểu cho khu vực doanh nghiệp các gánh nặng thể chế, tài chính và tín dụng trong đầu tư mở rộng thị trường trong nước và hỗ trợ các doanh nghiệp  tư nhân đầu tư ra nước ngoài;

Thứ ba, phát huy tinh thần doanh nghiệp và gắn kết cộng đồng, tự hào quốc gia, dân tộc

Trong nền kinh tế hiện đại, doanh nghiệp là trung tâm và đi đầu trong việc đưa sản xuất hàng hóa Việt Nam hội nhập KTTT thế giới. doanh nghiệp phải là lực lượng chủ lực trong việc xây dựng nền sản xuất kiểu mới, kiến tạo lại nền tảng thị trường hàng hóa phù hợp với nhu cầu, tiêu chuẩn tiêu dùng tiên tiến của thế giới, dựa trên tư duy sản xuất sản phẩm độc đáo, thể hiện bản sắc, thế mạnh đặc trưng của tài nguyên và tài trí Việt Nam. doanh nghiệp cũng cần có chiến lược kinh doanh lâu dài, đúng cam kết, đúng tiến độ, thực tâm hình thành mối quan hệ bình đẳng, “cùng thắng” với các bên trong chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt chú trọng chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm; có trách nhiệm bảo vệ môi trường, trách nhiệm với xã hội và cộng đồng, xây dựng môi trường lao động an toàn, thân thiện, hài hòa, vượt qua mọi rào cản kỹ thuật quốc gia và quốc tế, đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.

Thực tế cho thấy, để phát triển KTTN, cần khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm, tăng cường giáo dục lòng yêu nước tự hào dân tộc và bản lĩnh kinh doanh cho các doanh nhân và người lao động trong KTTN; Đồng thời, tư duy mới về phát triển KTTN Việt Nam cũng cần nghiêm khắc với những DN cố tình chuyển giá, trốn thuế và trốn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường, không tôn trọng quyền lợi người lao động và khách hàng, người tiêu dùng…

Cơ hội và thách thức mới trong bối cảnh CMCN 4.0 đòi hỏi phát huy tinh thần doanh nghiệp. Đó là tinh thần dũng cảm, quyết tâm và ý chí làm giàu có tổ chức cho mình và cộng đồng, trên cơ sở tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế, tự trọng, tự tôn, tự hào dân tộc và đề cao trách nhiệm xã hội; Sự chủ động và linh hoạt trong phản ứng hiệu quả với những biến động thị trường và chính sách; xây dựng và củng cố sự gắn kết cộng đồng, phát triển các chuỗi liên kết và cung ứng giá trị quốc gia và quốc tế dựa trên niềm tin, sự sáng tạo mà không đánh mất bản sắc; xử lý hài hòa các lợi ích và các khác biệt văn hóa trong kinh doanh, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cả trong phạm vi  quốc gia và khu vực…

Đặc biệt, tinh thần doanh nghiệp thể hiện tập trung ở sự dám nghĩ, đầu tư thông minh và nâng cao năng suất và chất lượng, giảm giá thành sản phẩm trên cơ sở coi trọng thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài, nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ, thiết bị sản xuất và quản trị doanh nghiệp tiên tiến. Tinh thần doanh nghiệp không chỉ đòi hỏi sự chủ động, tự giác và tự thân của cộng đồng và từng doanh nghiệp, mà còn cần được hun đúc, tôn vinh, chia sẻ và hỗ trợ từ cả hệ thống chính trị và xã hội; Theo đó, Chính phủ cần đột phá mạnh mẽ hơn về tư duy và thể chế; tập trung “kiến tạo” môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, lấy sự hài lòng của doanh nghiệp, người dân làm thước đo hiệu quả; đổi mới nền giáo dục và đào tạo nghề quốc gia theo hướng thông minh và đi trước một bước, bảo đảm người lao động được chuẩn bị tốt các kỹ năng và phẩm chất cần thiết để  hòa nhập và tái hòa nhập thị trường lao động xã hội; phát triển thị trường công nghệ, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là thị trường tài chính đầu tư cho phát triển nghiên cứu, sáng chế và thuận lợi trong thương mại hóa ý tưởng kinh doanh và sáng tạo, để tinh thần cởi mở, sự hứng khởi và niềm tin của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, người dân lan tỏa trong xã hội và thị trường Việt Nam.

Thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp trong bối cảnh CMCN 4.0 là thúc đẩy quá trình kiến tạo và đổi mới, đột phá về công nghệ, ý tưởng và chính sách, phát huy các lợi thế và tận dụng các cơ hội, thích ứng với các thách thức mới, dũng cảm lựa chọn các định hướng mới và khai thác hiệu quả các động lực mới, ngày càng nhận thức rõ hơn về tương lai; không ngừng chủ động, sáng tạo và hoàn thiện mình để trở thành “Doanh nghiệp Thông minh” của “Quốc gia Thông minh” trên hành trình xây dựng một Tổ Quốc Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; góp phần xây dựng cộng đồng kinh tế-doanh nghiệp ASEAN tự cường, sáng tạo, ngày càng lớn mạnh, phồn vinh – đối tác lựa chọn hấp dẫn và đầy tiềm năng của những doanh nghiệp toàn cầu …!

TS.Nguyễn Minh Phong, Ths.Nguyễn Trần Minh Trí

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here