Trang Ngoại giao Kinh tế trực tuyến xin giới thiệu bài phân tích của Michael Schuman trên trang Bloomberg ngày 17/1/2019 với tựa đề: “Không có chiến tranh thương mại, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với khủng hoảng” (Forget the trade war, China is already in crisis).
Ngay cả khi Trung Quốc ngăn được đà giảm tốc hiện nay, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vẫn sẽ sa lầy trong cuộc khủng hoảng nợ.
Một lần nữa, các nhà đầu tư toàn cầu lại đang hướng về Trung Quốc với ánh mắt đầy lo lắng. Và điều này là có lý do. Tăng trưởng kinh tế trong quý III giảm xuống 6,5%, mức thấp nhất kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Tiêu thụ ô tô năm 2018 giảm sút lần đầu trong vòng hơn hai thập kỷ qua. Apple cảnh báo trong đầu tháng 1/2019 rằng tiêu thụ iPhone đang sụt giảm, báo động cho toàn thế giới về khả năng sự giảm tốc Trung Quốc có thể làm sụt giảm tăng trưởng toàn cầu và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Trung Quốc đã nhận ra điều này từ lâu. Dù trải qua một đợt tăng gần đây, thị trường chứng khoán Thượng Hải vẫn sụt giảm hơn 1/4 so với mức cao của năm 2018. Viễn cảnh trước mắt cũng không khả quan hơn. Thuế quan mà Tổng thống Donald Trump áp đặt trên hàng xuất khẩu của Trung Quốc đang bắt đầu tác động tới các nhà máy của nước này. Sự sụt giảm mạnh và bất ngờ của nhập khẩu trong tháng 12 là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang suy giảm mạnh. Điều này khiến Bắc Kinh phải hạ giọng và đàm phán với Washington để xử lý các bất đồng.
Một thỏa thuận thương mại, nếu đạt được, sẽ xoa dịu các nhà đầu tư, và có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ít nhất là trong ngắn hạn. Tuy nhiên nó không giải quyết được triệt để các vấn đề của Trung Quốc. Thuế quan là một trở ngại lớn, nhưng vấn đề cốt lõi sâu xa hơn nằm ở cấu trúc tài chính của Trung Quốc.
Ít người để ý và nhận ra rằng Trung Quốc vốn đã rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là dạng khủng hoảng… của Mỹ năm 2008 hay sự sụp đổ bất ngờ của các con hổ Châu Á năm 1997. Tuy nhiên, đó là một cuộc khủng hoảng với sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, các công ty phá sản, khiến nhà nước phải tiến hành giải cứu. Trung Quốc vẫn gọi chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước của họ là “chủ nghĩa xã hội với đặc trưng của Trung Quốc”, vậy thì hãy gọi cuộc khủng hoảng này là “khủng hoảng tài chính với những đặc trưng của Trung Quốc”.
Cuộc khủng hoảng này không đơn thuần là về sự giảm tốc trong tăng trưởng hiện nay. Nó đã diễn ra một thời gian, và có vẻ như sẽ không kết thúc sớm. Dù cuộc khủng hoảng này có được giải quyết hay không thì cũng sẽ để lại hậu quả lớn hơn nhiều so với vài quý tăng trưởng thấp. Cuộc khủng hoảng này là về tương lai của kinh tế Trung Quốc và liệu Trung Quốc có thể thay đổi về cấu trúc để đưa đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế phát triển nhất trên thế giới. Nó cũng quyết định liệu Trung Quốc có thể trở thành một tru cột của tăng trưởng toàn cầu-hay một mối đe dọa đối với ổn định tài chính toàn cầu.
Thoạt nhìn, toàn bộ ý tưởng về Trung Quốc đang rơi vào khủng hoảng có vẻ nực cười. Tăng trưởng chậm lại, nhưng vẫn khá chắc chắn-giả dụ như bạn tin vào các con số mà chính quyền đưa ra. Các ngân hàng và công ty không có dấu hiệu phá sản hàng loạt. Đồng nhân dân tệ thậm chí có dấu hiệu tăng mạnh trong thời gian gần đây. Trong khi nỗi lo về tình trạng của nền kinh tế xuất hiện, tiêu dùng cũng giảm, và bầu không khí ở Trung Quốc trở nên u ám, và điều này thường đi kèm với biến động tài chính.
Khủng hoảng? Và khủng hoảng nào?
Đúng là Trung Quốc có thể chưa bao giờ phải trải qua một cuộc khủng hoảng như từng xảy ra tại Mỹ và cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại ở Trung Quốc cũng không giống như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Cuộc khủng hoảng tại Trung Quốc không diễn ra bất ngờ, phá huỷ hệ thống ngân hàng và hàng triệu việc làm mà diễn ra âm ỉ, chậm rãi nên rất khó phát hiện. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng và cái giá phải trả là tương đương hoặc thậm chí còn nặng nề hơn các cuộc khủng hoảng thông thường.
Vài năm trước, một số nhà quan sát Trung Quốc dự báo kinh tế nước này có thể trải qua một cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tất cả các dấu hiệu đều cho thấy điều đó: từ bong bóng bất động sản, dư thừa sản lượng công nghiệp từ thép cho đến pin năng lượng mặt trời và điều đáng lo ngại hơn cả là sự hình thành của một khoản nợ khổng lồ. Theo tính toán của Ngân hàng Xử lý Nợ Quốc tế, tỷ lệ nợ trên GDP của Trung Quốc giữa năm 2018 lên tới 253% từ mức 140% của một thập kỷ trước đó. Kể từ các năm 90 trở lại đây, không có một nền kinh tế mới nổi nào với khối lượng nợ lớn như vậy lại có thể thoát khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính. Trung Quốc sẽ tạo nên một kỳ tích nếu trở thành một ngoại lệ.
Người ta đã theo dõi và chờ đợi thời điểm một vụ như ngân hàng “Lehman Brothers” xảy ra tại Trung Quốc. Điều này chưa hề xảy ra. Một số nhà phân tích cho rằng điều này sẽ không bao giờ xảy ra vì Trung Quốc quá lớn để có thể phá sản. Để kiểm soát các ngân hàng, tập đoàn lớn và dòng vốn, Chính phủ Trung Quốc có nhiều công cụ và tầng lớp kiểm soát hơn là một nền kinh tế tự do. Sức mạnh này đã được Trung Quốc cho thấy vào năm 2015 sau khi cuộc bong bóng chứng khoản bùng nổ, với đồng nội tệ mất giá và dòng tiền bắt đầu thoát ra khỏi đất nước. Tuy nhiên, không giống như các thị trường đang phát triển khác, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành giải cứu ngay thị trường chứng khoán, cấm đưa dòng tiền ra khỏi nước này và cuộc khủng hoảng được dập tắt.
Cách tiếp cận trên cho thấy chiến lược của Trung Quốc đối với vấn đề nợ. Chính phủ rất chú trọng đến ổn định xã hội và sẽ không để cho quả bom “nợ” có thể phát nổ. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính theo kiểu Trung Quốc đang có những ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế.
Giống như bất cứ cuộc khủng hoảng nợ nào, tình trạng của các ngân hàng Trung Quốc đã xấu đi nhiều. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2018 đã đạt mức cao nhất kể từ một thập kỷ trở lại đây nhưng hiện vẫn chỉ chiếm 2% tổng dư nợ tín dụng của Trung Quốc theo số liệu của Chính phủ, và điều này rất khó tin. Đại diện tổ chức Autonomous Research và một trong những chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc Charlene Chu ước tính rằng 24% dự nợ tín dụng của Trung Quốc, tương đương với 8,5 nghìn tỷ USD, là nợ xấu. Điều này có thể khó tin nhưng tại cuộc khủng hoảng năm 1997, tỷ lệ nợ xấu tại In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc và Thái Lan ở mức 1/3 tổng dư nợ tín dụng.
Trong các cuộc khủng hoảng, tổng mức nợ và thiệt hại thường cao hơn dự đoán. Trong một nghiên cứu tháng 10, tổ chức xếp hạng tín dụng S&P Global Ratings chỉ ra rằng, mức độ nợ của các địa phương Trung Quốc vẫn là ẩn số do nhiều trường hợp nằm ngoài sổ sách. S&P cho rằng tỷ lệ nợ “tiềm ẩn” có thể cao gấp nhiều lần mức số liệu chính thức là 6 tỷ USD. S&P gọi đây là một tảng băng nợ với rủi ro tín dụng rất lớn. Các đia phương Trung Quốc đã nhiều lần tăng đầu tư công trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng để kích thích tăng trưởng nhưng với mức nợ lớn như hiện tại, công cụ này đã đạt giới hạn của nó.
Trung Quốc cũng đang phải đối phó với một dấu hiệu khác của khủng hoàng tài chính: thoái vốn ồ ạt. Do bị kiểm soát chặt chẽ, tiền không thể bốc hơi nhanh như khi được kiểm soát dưới một chế độ kiểm soát lỏng lẻo hơn. Nhưng dù sao đi nữa thì vốn vẫn tháo chạy khỏi Trung Quốc. Theo Hiệp hội Môi giới quốc gia Mỹ, Trung Quốc đứng đầu danh sách người nước ngoài mua bất động sản nhà tại Mỹ trong 6 năm liên tiếp. Trong 12 tháng tính đến cuối tháng 3, người Trung Quốc đã mua hơn 30 tỷ USD bất động sản tại Mỹ, gấp ba lần lượng mua của người Canada và bốn lần Anh và Ấn Độ.
Về lý thuyết, khủng hoảng tài chính kiểu Trung Quốc có mặt lợi hơn so với các cuộc khủng hoảng tài chính thông thường. Thông qua việc duy trì tăng trưởng và công ăn việc làm, Bắc Kinh đang kéo dài thời gian để củng cố hệ thống. Các nhà quản lý đang nỗ lực để giải quyết một số vấn đề, như việc số lượng công ty phá sản đã tăng mạnh trong năm trước. Trên thực tế, chính phủ đang kéo dài cuộc khủng hoảng do tốc độ xử lý các bất ổn tài chính quá chậm. Những gì chính phủ Trung Quốc cần lúc này là cải tổ toàn diện các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Thậm chí các nhà hoạch định chính sách còn khiến tình hình tồi tệ hơn. Trung Quốc vẫn kiên trì hướng tới những mục tiêu tăng trưởng mà vốn không thể đạt được nếu không bơm thêm tín dụng. Trung Quốc như một “con nghiện” nợ và như những con nghiện khác, quốc gia này cần một “liều thuốc”- tín dụng-để tồn tại. Một khi “liều thuốc” ngắn hạn đó mất dần tác dụng, nền kinh tế sẽ lại giảm tốc. Giới lãnh đạo Trung Quốc lo sợ, mất đi quyết tâm xử lý nợ và lại tiếp tục tạo “tiêm” nhiều khoản nợ tín dụng khác.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang trong vòng xoáy đó. Kinh tế giảm tốc gần đây là kết quả của việc chính phủ nỗ lực hạn chế nợ. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách, như thường lệ, lại tiếp tục bơm tín dụng. Đầu tháng 1, Ngân hàng Trung ương quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho phép các ngân hàng cho vay nhiều hơn, đồng nghĩa với việc có thêm nhiều khoản nợ xấu. Theo Dinny McMahon, tác giả cuốn China’s Great Wall of Debt, “nhiều khoản nợ xấu sẽ lại được sinh ra và gây nên nhiều rắc rối như trong suốt thập kỷ qua.”
Theo đó, chính phủ Trung Quốc đang khiến cho cuộc khủng hoảng tại quốc gia này tồi tệ hơn những cuộc khủng hoảng thông thường. Những vụ phá sản như Lehman Brothers có thể đáng sợ nhưng đồng thời cũng là cơ hội giúp thị trường “thanh lọc”, dọn chỗ cho những yếu tố mới tốt đẹp hơn. Bắc Kinh đang cố gắng để ngăn chặn một sự “thanh lọc” như vậy, và điều này khiến lượng “rác thải” tồn đọng tại Trung Quốc ngày một nhiều hơn, làm tăng chi phí của một cuộc “thanh lọc” không thể tránh khỏi.
Cuối cùng Nhà nước sẽ phải vào cuộc và dọn dẹp mớ hỗn độn đó, tương tự như trường hợp của Mỹ năm 2008. Việc sửa chữa hệ thống ngân hàng Trung Quốc có thể đòi hỏi những chương trình phức tạp hơn cả các Chương trình cứu trợ các tài sản gặp rắc rối của Mỹ. Chúng ta có thể nhìn lại các cuộc khủng hoảng trong quá khứ để biết được cái giá cho việc này có thể lớn đến mức nào. Chính phủ Hàn Quốc đã chi một khoản tiền tương đương 31% GDP để sửa đổi hệ thống tài chính từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997. Nếu áp dụng tương tự Hàn Quốc, khoản chi của Trung Quốc có thể lên đến 3,8 nghìn tỷ USD hoặc thậm chí cao hơn. Indonesia đã bỏ ra tới 57% GDP chi cho tái cơ cấu sau khủng hoảng 1997.
Mặc khác, nền kinh tế đang chịu áp lực lớn. Phần lớn các khoản vay nợ của Trung Quốc được sử dụng không hiệu quả-các nhà máy không cần thiết, các công ty ma mất khả năng thanh khoản-và sự phân bổ tài nguyên sai lầm đó đang ăn mòn các yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng. Theo tổ chức nghiên cứu Conference Board có trụ sở tại New York, mức tăng năng suất của Trung Quốc đã ở mức âm từ năm 2012.
Tất cả dẫn tới một vòng xoáy đưa kinh tế Trung Quốc đi xuống, Với một quốc gia vốn đã ngập trong nợ nần như Trung Quốc, nỗ lực kích thích nền kinh tế bằng tín dụng ngày càng giảm tác dụng. Fathom Consulting, trong một nghiên cứu công bố tháng 10/2018, nhận định mô hình kinh tế cũ kỹ của Trung Quốc cho thấy sự giảm dần trong lợi nhuận cận biên. Nhiều dấu hiệu cho thấy điều này đang diễn ra. Mặc dù qua nhiều tháng thúc đẩy, tăng trưởng tín dụng đã không đạt mức mà các nhà hoạch định chính sách mong đợi. Nỗi lo lắng gia tăng cùng với mức nợ khổng lồ đang khiến chính phủ càng khó khăn hơn trong việc duy trì tăng trưởng dựa vào tín dụng bổ sung.
Có thể sẽ đến lúc các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nhận thấy cần phải ưu tiên kiểm soát nợ hơn là ưu tiên tăng trưởng. Tuy vậy thật khó tưởng tượng điều gì sẽ thức tỉnh họ. Lạm phát tăng cao có thể thay đổi cuộc chơi, vì ngân hàng trung ương sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tục bơm tiền vào để duy trì hệ thống. Nhưng điều này sẽ khó xảy ra, ít nhất là trong ngắn hạn. Lạm phát giảm nhanh đang gây lo ngại rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn giảm phát-điều này sẽ khiến việc trả nợ của nước này càng khó khăn hơn.
Giải pháp duy nhất khả thi như McMahon đã ghi nhận, đó là “thay đổi cách mà nền kinh tế tăng trưởng”. Các nhà kinh tế và chuyên gia chính sách đã tranh luận trường kỳ về việc Trung Quốc cần phải “tái cân bằng” – chuyển đổi động lực tăng trưởng từ đầu tư thành tiêu thụ. Việc này đang bị trì hoãn. Mỗi lần chính phủ dùng khoản nợ để thúc đẩy tăng trưởng là một bước lùi trong việc tái cấu trúc nền kinh tế. Theo Fathom, Bắc Kinh đang “tránh né việc tái cân bằng nền kinh tế trong khi lại tích lũy thêm những vấn đề cần phải xử lý trong tương lai”.
Vấn đề cơ bản là các cải cách tự do hóa có thể đưa nền kinh tế đi theo hướng lành mạnh hơn đều đã bị xóa bỏ và không có dấu hiệu sẽ được tái triển khai. Ưu tiên hàng đầu của Chủ tịch Tập Cận Bình là áp đặt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản đối với mọi thứ, vì vậy, ông duy trì nền kinh tế nặng về đầu tư và do Chính phủ điều hành, và đó chính là trung tâm của cuộc khủng hoảng tài chính đặc thù Trung Quốc. Những chính sách công nghiệp mới nhất của ông Tập cho thấy tham vọng về việc sản xuất những sản phẩm tiên tiến hơn, như rô bốt, vi mạch, xe điện. Tuy nhiên, chúng cũng lại dẫn đến những vấn đề như cũ: quá nhiều nhà máy, quá nhiều nợ, quá nhiều chất thải.
Kể cả khi cách tiếp cận của ông Tập mang lại tăng trưởng và các lĩnh vực mới, điều này cũng sẽ không thể giải quyết những vấn đề đang tồn tại. Những khoản nợ xấu sẽ không thể tự biến thành vàng ròng. Sự khác biệt duy nhất giữa một cuộc khủng khoảng tài chính bình thường và khủng hoảng tài chính đặc thù của Trung Quốc chính là thời hạn. Đa số các biến động tài chính bình thường diễn ra trong vài tháng, tuy nhiên ở Trung Quốc có thể kéo dài vài năm. Do Trung Quốc là nền kinh tế mới nổi đang phát triển mạnh mẽ nhất trên thế giới, nước này có thể trở thành cứu cánh cho nền kinh tế thế giới đang xuống dốc. Tuy nhiên, cho đến khi Trung Quốc tự xử lý được khủng hoảng tài chính của chính mình, nền kinh tế này vẫn đang là một mối lo ngại của kinh tế thế giới./.
(Phương Ly – dịch)