Trang chủ > Hồ sơ thị trường > U-gan-đa
Tình hình phát triển kinh tế những năm gần đây
- GDP
- Giá trị: 27,6 tỷ USD (2017).
- Tăng trưởng: năm 2015: 4,8%; năm 2016: 2,3%; năm 2017: 4,7%.
- Tỉ trọng: nông nghiệp (24,5%); nông nghiệp (21%); dịch vụ (54,4%).
- GDP trên đầu người: 653,2 USD (2017).
- Dự kiến tăng trưởng năm 2018: 5,9%.
- Dự trữ ngoại hối: 3,65 tỷ USD (năm 2017).
- Lạm phát:
- Năm 2015: 5,5%.
- Năm 2016: 5,5%.
- Năm 2017: 5,1%.
- Xuất khẩu:
- Tổng giá trị: 2,7 tỷ USD (2016).
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: cà phê, cá và sản phẩm từ cá, chè, bông, hoa, hoa màu, vàng.
- Đối tác xuất khẩu chính: Rwanda (10,7%), UAE (9,9%), Cộng hoà Dân chủ Công-gô (9,8%), Kenya (9,7%), Italy (5,8%), Hà Lan (4,8%), Đức (4,7%), Trung Quốc (4,1%)…
- Nhập khẩu:
- Tổng giá trị: 6,3 tỷ USD (2016).
- Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Trang thiết bị, xe cơ giới, xăng dầu, thuốc, ngũ cốc…
- Đối tác nhập khẩu chính: Kenya (16,4%), UAE (15,5%), Ấn Độ (13,4%), Trung Quốc (3,1%)…
- Một số ngành trọng điểm:
- Nông nghiệp chiếm 24,5% GDP, sử dụng 71,9% lực lượng lao động. Các mặt hàng nông sản chủ yếu gồm: cà phê, chè, bông, sợi thuốc lá, sắn, khoai tây, ngô, kê, đậu Hà Lan, hoa, thịt bò, thịt dê, sữa, gia cầm và cá.
- Sản xuất công nghiệp chiếm 21% tổng giá trị GDP với các sản phẩm chủ yếu: đường, rượu bia, thuốc lá, dệt bông, xi măng, thép…
Một số nét chính về chính sách kinh tế, thương mại đầu tư
Định hướng lớn trong chính sách thương mại đầu tư
- Từ năm 2010, Chính phủ Uganda triển khai kế hoạch chuyển đổi nền kinh tế Uganda từ nông nghiệp thành một đất nước hiện đại và thịnh vượng trong vòng 30 năm. Kế hoạch phát triển Quốc gia của Chính phủ xác định 8 mục tiêu chiến lược: 1) tăng thu nhập hộ gia đình và thúc đẩy công bằng; 2) nâng cao tính khả dụng và chất lượng của việc làm có ích; 3) cải thiện trữ lượng và chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế; 4) tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội có chất lượng; 5) thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới và tin học hoá để tăng cường khả năng cạnh tranh; 6) tăng cường phát triển nguồn nhân lực; 7) tăng cường quản trị tốt, quốc phòng và an ninh; 8) thúc đẩy dân số bền vững và sử dụng môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
- Chính sách thương mại buộc Chính phủ đóng vai trò chính trong việc loại bỏ các rào cản thương mại và tạo môi trường cho phép khu vực tư nhân phát triển và xây dựng khả năng sản xuất các loại hàng hóa và dịch vụ có chất lượng và cạnh tranh cao, đáng tin cậy và dựa trên nền tảng bền vững. Chính sách này xác định mối quan hệ giữa ngành thương mại và các ngành sản xuất, trong đó nông nghiệp và công nghiệp khai thác được coi là những trụ cột quan trọng trong việc hướng đến chuyển đổi mô hình kinh tế.
- Chính sách, luật lệ và quy định của Uganda thường có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Luật Uganda cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp nước ngoài được phép hợp tác với Uganda mà không bị hạn chế. Chính phủ Ugandacó chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp như: giảm 75% thuế nhập khẩu đối với thiết bị nhà máy, khấu hao chi phí khởi động trong bốn năm và khấu trừ 100% chi phí nghiên cứu và đào tạo cũng như chi phí thăm dò khoáng sản.
- Luật đầu tư của Uganda không cho phép người nước ngoài đầu tư vào trồng trọt hoặc chăn nuôi. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài có thể tạo ra một công ty có trụ sở tại Uganda để đầu tư vào trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào một số lĩnh vực đặc biệt (như bán buôn và bán lẻ, dịch vụ cá nhân, quan hệ công chúng, dịch vụ cho thuê xe, vận hành taxi, tiệm bánh, bánh kẹo và chế biến thực phẩm cho thị trường Uganda) không được hưởng các ưu đãi như dành cho nhà đầu tư trong các lĩnh vực kinh doanh khác.
Các biện pháp phòng vệ thương mại và hàng rào kỹ thuật thường sử dụng
- Uganda là nước nhập siêu. Mặc dù có xu hướng bảo hộ nền sản xuất còn non trẻ trong nước nhưng các biện pháp phòng vệ thương mại được Uganda áp dụng là không đáng kể. Uganda chủ yếu dùng công cụ thuế để điều tiết cán cân thương mại và khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu.
- Để bảo hộ nền sản xuất trong nước, Chính phủ Uganda thường áp thuế cao trong thời gian cụ thể đối với các mặt hàng trong nước có thể sản xuất được.
- Trong một số trường hợp đặc biệt, Chính phủ cấm nhập khẩu tạm thời một số mặt hàng cần được bảo hộ như gạo, đường, lúa mì…
Quan hệ kinh tế với Việt Nam
Về thương mại – đầu tư:
- Do không đại diện thương mại tại khu vực trên nên các hoạt động xúc tiến giữa hai bên còn hạn chế. Một số doanh nghiệp Việt Nam quan tâm tìm hiểu thị trường tại khu vực này nhưng chưa phát sinh giao dịch nhiều do tâm lý e ngại và một số khó khăn trong khâu thanh toán. Các mặt hàng được doanh nghiệp Việt Nam quan tâm chủ yếu là gỗ, quặng đồng, kim loại quý…
- Một số doanh nghiệp nhỏ từ Uganda đã bắt đầu đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề giá cả, phương tiện và chi phí vận chuyển, nên các doanh nghiệp cũng chỉ mua các mặt hàng thuộc thế mạnh của Việt Nam như hàng may mặc, da giày và một số hàng tiêu dùng.
- Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các nước thuộc khu vực này còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng.
Các thoả thuận đã ký kết:
Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh xúc tiến việc đàm phán các văn bản hợp tác với các nước thuộc khu vực Đông Phi:
- Với Uganda: Biên bản hợp tác giữa hai Bộ Công thương. Phía Uganda cũng ngỏ ý sẵn sàng đàm phán và ký kết Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Thương mại
Các nước thuộc khu vực Đông Phi có truyền thống nhập siêu, sức tiêu thụ lớn. Kenya, Ethiopia, Tanzania và Uganda là các thị trường lớn nhất với dân số lần lượt là 45 triệu, 100 triệu, 55 triệu và 40 triệu người.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm: trang thiết bị giao thông – vận tải, máy móc – vật liệu xây dựng, trang thiết bị điện – điện tử, xăng dầu, sắt thép, trang thiết bị y tế, dược phẩm, máy móc nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu, nguyên vật liệu công nghiệp, thực phẩm, hàng tiêu dùng… Hầu hết các mặt hàng do Việt Nam sản xuất đều có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường này.
Việc lưu chuyển hàng hoá giữa các nước trong nội khối Đông Phi là rất dễ dàng do các nước đã ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và thông qua hệ thống đường sắt nối với cảng của Tanzania và Kenya.
Một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến thị trường này như Trường Hải, Vinamilk, Pin Ắc-quy Miền Nam, Hanvet… Sau một thời gian nghiên cứu, các doanh nghiệp này đều có đánh giá tích cực về triển vọng tiêu thụ hàng hoá Việt Nam. Điều này cho thấy, nếu doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đúng mức đến thị trường khu vực này, có chiến lược rõ ràng và nhận được sự hỗ trợ tích cực từ Chính phủ thì triển vọng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các thị trường này là rất lớn trong thời gian tới.
Nông nghiệp
Các nước thuộc khu vực Đông Phi đều có diện tích rộng lớn, đất đai tương đối màu mỡ, khí hậu ổn định. Đa số diện tích đất nông nghiệp còn bỏ trống do thiếu nhân lực, vốn ít, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác còn thấp, hệ thống tưới tiêu chưa tốt.
Chính phủ các nước đã xây dựng chiến lược, đề ra nhiều biện pháp nhằm phát triển và hiện đại hóa ngành nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng nhưng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Ngoài ra, Chính phủ các nước rất khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
Các nước thuộc khu vực luôn bày tỏ mong muốn được hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó ưu tiên biện pháp cử chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam sang hỗ trợ kỹ thuật và kêu gọi doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư các dự án sản xuất, chế biến các sản phẩm nông nghiệp.
Trong bối cảnh một số ngành sản xuất của Việt Nam thiếu nguyên liệu đầu vào và một số ngành còn phụ thuộc nhiều vào nguồn cung từ Trung Quốc, đây là thời điểm cần khuyến khích các doanh nghiệp của Việt Nam sang thuê đất, mở các trang trại trồng cây công nghiệp tại các nước trong khu vực để phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước, đặc biệt là các nguyên liệu thiết yếu cho ngành sản xuất của Việt Nam như: cây điều, cây bông, cây sợi, cây cao su…
Đánh bắt, chế biến và nuôi trồng hải, thủy sản
Tanzania và Kenya có diện tích mặt biển lớn. Trong đó, Tanzania có bờ biển dài (1.424 km) cùng hệ thống các đảo Zanzibar, Pemba và Mafia ở phía tây Ấn Độ Dương nên tiềm năng đánh bắt, nuôi trồng hải sản là rất lớn.
Tanzania, Uganda và Kenya cùng chia sẻ hồ Victoria rộng thứ nhì thế giới với diện tích 68.800 km2. Ngoài ra, Tanzania cùng chia sẻ với Burundi, CHDC Congo và Zambia hồ Tanganyika sâu thứ nhì thế giới với diện tích 32.900 km2; cùng chia sẻ với Malawi và Mozambique hồ Nyasa với diện tích 30.800 km2. Ngoài các hồ lớn nêu trên, Uganda, Tanzania, Kenya và Rwanda đều có nhiều hồ nước ngọt lớn khác, phù hợp với việc nuôi trồng thuỷ sản.
Với kinh nghiệm trong việc đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy – hải sản, Việt Nam hoàn toàn có thể hợp tác với các nước Đông Phi trong lĩnh vực này. Trong các cuộc tiếp xúc, lãnh đạo các nước khu vực Đông Phi đều đánh giá cao năng lực nuôi trồng, chế biến thuỷ – hải sản của Việt Nam và mong muốn doanh nghiệp Việt Nam sang hợp tác đầu tư.
Việc khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư trong lĩnh vực này là thuận lợi, mang lại lợi ích cho cả hai phía trong bối cảnh nguồn tài nguyên biển của chúng ta ngày càng khan hiếm; các công ty chế biến thủy – hải sản của Việt Nam thường xuyên thiếu nguyên liệu sản xuất do diện tích mặt nước dành cho nuôi trồng thủy – hải sản ở một số vùng của Việt Nam ngày càng bị thu hẹp.
Hợp tác khai thác khoáng sản:
Các nước khu vực Đông Phi giầu tài nguyên thiên nhiên, có tiềm năng lớn về vàng, sắt, thiếc, các kim loại cơ bản, kim cương, đá quý, khí đốt, than, uranium… Do trình độ khoa học, công nghệ và vốn của các nước này còn hạn chế nên việc khai thác mỏ chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện. Các sản phẩm khai thác chủ yếu được xuất thô, nên giá trị gia tăng chưa cao, tỉ lệ đóng góp ngân sách không nhiều.
Chính phủ các nước đang khuyến khích, kêu gọi doanh nghiệp nước ngoài đầu tư khai thác kết hợp với chế biến, chế tác nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm và tạo công ăn việc làm cho người dân.
Các doanh nghiệp Việt Nam có kinh nghiệm trong lĩnh vực khai thác và chế tác vàng, đá quý hoàn toàn có cơ hội tham gia lĩnh vực này tại các nước Đông Phi. Hiện có một doanh nghiệp của Việt Nam đang đầu tư khai thác vàng tại Tanzania và thăm dò một số nước khác trong khu vực. Tuy quy mô đầu tư của doanh nghiệp này còn nhỏ nhưng bước đầu đã cho thấy những tín hiệu tích cực. Trong thời gian tới, ta cần tính toàn khả năng hợp tác với các nước trong khu vực trong lĩnh vực khai khoáng và chế tác kim loại quý, đá quý nhằm mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Hợp tác xây dựng, xây dựng cơ sở hạ tầng
Chính phủ các nước khu vực đang tập trung xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng, trong đó đặc biệt quan tâm chỉnh trang đô thị và phát triển hạ tầng giao thông. Tanzania, Ethiopia và Kenya đang kêu gọi doanh nghiệp nước ngoài tham gia các dự án xây dựng đường bộ, đường sắt, cảng biển, cảng hàng không. Một số doanh nghiệp xây dựng của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ đã có mặt từ nhiều năm. Bên cạnh các dự án hạ tầng giao thông, nhu cầu xây dựng dân sự cũng rất lớn.
Nếu được khuyến khích và quan tâm đúng mức, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia tại thị trường này.
Các quy định về xuất nhập khẩu, thuế suất
- Thông tin về thủ tục xuất, nhập khẩu và biểu giá thuế tại Uganda có thể tham khảo tại: https://www.ura.go.ug.
- Thông tin về thủ tục đầu tư tại Uganda có thể tham khảo tại: ugandainvest.go.ug.
Một số lưu ý khi giao dịch với các đối tác Châu Phi
Đối với các nước khu vực Đông Phi nói riêng và Châu Phi nói chung, khi thực hiện các hoạt động trao đổi thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý các vấn đề sau:
- Kiểm tra kỹ tư cách pháp nhân và năng lực của đối tác nhằm đảm bảo độ tin cậy của đối tác và tránh được các trường hợp lừa đảo. Để thực hiện được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham khảo ý kiến của cơ quan đại diện Việt Nam, đặc biệt là bộ phận thương vụ tại nước đặt trụ sở của doanh nghiệp đối tác. Trường hợp cần thiết, doanh nghiệp Việt Nam nên đến gặp gỡ, tham quan doanh nghiệp đối tác và theo dõi trực tiếp quá trình sản xuất, vận chuyển, cung cấp hàng.
- Nên đề nghị đối tác thanh toán bằng L/C tại ngân hàng uy tín. Tuyệt đối, không đặt cọc tiền trước khi giao hàng để tránh các trường hợp lừa đảo. Thủ đoạn thường gặp là sau khi nhận 10% hoặc 20% tiền cọc, các doanh nghiệp lừa đảo sẽ tìm cách không giao hàng hoặc biến mất.
- Cử đại diện kiểm tra kỹ chất lượng, số lượng, quy cách hàng nhằm đảm bảo giao hàng đúng, đủ. Đối với các đối tác lần đầu giao dịch, doanh nghiệp Việt Nam cần theo dõi quá trình đóng gói, đóng công-ten-nơ và chuyến hàng lên tàu tại cảng.
Tại Việt Nam
Vụ Thị trường Châu Á, Châu Phi – Bộ Công Thương
54 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Tel: 024 2220 5410
Email: VAP@moit.gov.vn
Đại sứ quán của Uganda tại Trung Quốc kiêm nhiệm Việt Nam
Địa chỉ: 5, Sanlitun Dongjie Chaoyang District, 100600 Beijing
Điện thoại: +8610 6532 1708; +8610 6532 1324; +8610 6532 2370
Fax: +8610 6532 2242
Email: info@ugandaembassycn.org
Tại U-gan-đa
Đại sứ quán Việt Nam tại Tanzania kiêm nhiệm Uganda
Địa chỉ: Plot 11, Bongoyo Road, Oysterbay, Dar es Salaam; P.O Box: 9724, Dar es Salaam – Tanzania
Điện thoại: +255-22-2664535
Fax: +255-22-2664537
Email: vnemb.taz2009@yahoo.com.vn hoặc vnemb.tz@mofa.gov.vn
Website: http://www.vietnamembassy-tanzania.org/