Một số vấn đề về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam và một số kiến nghị

0
117

Việt Nam đã và đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm qua với việc đàm phán, ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do. Tuy nhiên trong quá trình thực thi cho thấy nhiều FTA không mang lại hiệu quả mong muốn, và bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi nên Việt Nam cần có những điều chỉnh phù hợp. Nghiên cứu này đánh giá, phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua, đánh giá những nhân tố tác động tới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian tới và đưa ra các khuyến nghị đối với các bên liên quan.

  1. Đẩy mạnh hội nhập và thực thi các FTA

Việt Nam đã và đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo chủ trương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện với hội nhập kinh tế là trọng tâm, là thành viên sáng lập của Cộng đồng kinh tế ASEAN hình thành vào ngày 31 tháng 12 năm 2015; Quốc hội phê chuẩn Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO vào ngày 29 tháng 11 năm 2015; Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò chủ nhà năm APEC 2017.

Bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh hội nhập ngoài nước thông qua việc đàm phán và tham gia các chương trình hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đẩy mạnh hơn nữa hội nhập trong nước thông qua việc thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 FTA bao gồm: 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN (gồm AFTA, 05 FTA giữa ASEAN với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Úc và New Zealand); 4 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập (Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á- Âu); FTA với Liên minh Châu Âu.

Như vậy, về cơ bản Việt Nam đã và sẽ thiết lập quan hệ FTA với hầu hết các đối tác thương mại chủ chốt của mình. Việc đẩy mạnh hội nhập và thực thi các FTA góp phần vào tốc độ tăng trưởng đều đặn hàng năm, kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tập trung vào các thị trường truyền thống mà Việt Nam đã có quan hệ thương mại và thực thi các FTA tại Châu Á, Châu Mỹ và Châu Âu.

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo một số mặt hàng chính giai đoạn 2014-2016

Đơn vị: Triệu USD

Mặt hàng chủ yếu Năm 2014 Năm 2015 Ước năm 2016 Tỷ lệ so sánh 2016/2015 (%)
Tổng kim ngạch xuất khẩu 150,217 162,112 176,6 9
1.     Nhóm nông, thủy sản 22,145 20,617 22 7
2.     Nhóm nhiên liệu và khoáng sản 9,040 4,917    
3.     Nhóm công nghiệp chế biến 110,374 127,816 141,8 11
Hàng dệt, may 20,911 22,815 23,8
Giầy, dép các loại 10,326 12,011 13
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 1,110 1,434 3
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 11,434 15,610 19
Điện thoại các loại và linh kiện 23,598 30,176 34,3
……… …. ……… ……….
4.     Hàng hóa khác 8,659 8,762 9,1 3,4

Nguồn: Bộ Công Thương và tính toán của tác giả, 2017

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều đặn hàng năm, thị trường được mở rộng, các mặt hàng xuất khẩu có chuyển biến tích cực, hàng công nghiệp chế biến- chế tạo có tốc độ tăng trưởng cao.

Biểu đồ 1: Xuất khẩu hàng hóa theo thị trường giai đoạn 2011-2016 (ĐVT: Triệu USD)

Biểu đồ 1: Xuất khẩu hàng hóa theo thị trường giai đoạn 2011-2016.

Nguồn: Bộ Công Thương 2017 và tính toán của tác giả

Theo Bộ Công Thương, xuất khẩu 11 tháng năm 2017 ước đạt 193,75 tỷ USD, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 53,1 tỷ USD, tăng 16,8%; khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt 140,66 tỷ USD (tính cả dầu thô), tăng 22,8% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng đầu năm 2017, xuất siêu ước đạt 2,76 tỷ USD

Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo từng nhóm hàng 11 tháng đầu năm 2017

Nhóm hàng Ước xuất khẩu 11 tháng năm 2017 (Tỷ USD) Tăng/giảm so với cùng kỳ năm 2016 (%) Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu (%)
Nông sản, thủy sản 23,5 + 16,9% 12,1%
Nhiên liệu, khoáng sản 3,9 + 26,4% 2,0%
Công nghiệp chế biến 157,3 + 22,4% 81,2%
Hàng hóa khác 9,0 + 8,2% 4,6%

Nguồn: Bộ Công Thương 2017

Tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở tất cả các nhóm hàng. Nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cao như rau quả, cao su, gạo, sắt thép, hóa chất, điện thoại, máy vi tính và linh kiện điện tử, máy móc thiết bị. Tính đến hết tháng 11 năm 2017 có 26 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD trong đó 19 mặt hàng có kim ngạch xuất khấu trên 2 tỷ USD.

Thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á với kim ngạch hơn 85,28 tỷ USD trong năm 2016, chiếm 48,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó nổi bật như: thị trường Trung Quốc với kim ngạch hơn 21,97 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; thị trường Nhật Bản đạt gần 14,68 tỷ USD, tăng 3,9%, chiếm tỷ trọng 8,3%; Hàn Quốc đạt gần 11,42 tỷ USD, tăng 28%, chiếm tỷ trọng 6,5%…

Thị trường Châu Mỹ đạt kim ngạch hơn 47,38 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch hơn 38,46 tỷ USD; tăng 14,9%, chiếm tỷ trong 21,78%; Thị trường Châu Âu với kim ngạch gần 37,84 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 21,4%. Trong đó, thị trường EU (28 nước) đạt gần 33,97 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 19,2%, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Châu Đại Duong đạt kim ngạch gần 3,39 tỷ USD, chiếm tỷ trong 1,9%; Châu Phi đạt gần 2,74 chiếm tỷ trọng 1,6%.

Bảng 3: Xuất khẩu hàng hóa theo một số thị trường giai đoạn 2011- 2016 Đvt:Tr.USD

TT   Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Ước năm 2016 Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 2011 – 2015
I Châu Á 34,5

01

49,3

04

60,0

93

67,7

36

74,3

40

80,2

85

85,28 18.4
II Châu Âu 15,0

57

19,3

01

22,6

66

27,0

52

30,7

16

34,3

77

37,84 18.0
III Châu Mỹ 16,6

71

19,7

03

22,7

99

28,0

69

30,2

70

34,4

74

47,38 15.6
IV Châu Phi 1,14

4

2,67

0

1,56

3

2,00

0

2,20

5

2,47

4

2,74 16.7
V Châu Đại Dương 2,82

7

2,75

3

3,42

5

3,90

9

4,27

0

4,66

0

3,39 10.5

Nguồn: Bộ Công Thương 2017 và tính toán của tác giả

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tập trung vào việc thực thi tốt các FTA đã ký kết, tìm các biện pháp để tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu thách thức từ các FTA đã ký kết. Hiện tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng ưu đãi đang tăng dần lên như tại VKFTA là trên 60%… Tuy nhiên với việc Hoa Kỳ rút khỏi TPP ảnh hưởng không ít tới Việt Nam, quốc gia được đánh giá sẽ được hưởng lợi nhiều nếu TPP (với sự tham gia của Hoa Kỳ) được thực thi, hơn nữa việc thực thi một số FTA khác cũng không mang lại hiệu quả như kỳ vọng của Việt Nam.

  1. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua

Xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thô và sơ chế, bao gồm cả dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các mặt hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa xuất khẩu ngoài khoáng sản, nhiên liệu thô thì hàng hóa nông nghiệp 90% là sản phẩm thô và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm, điêu đó phản ánh một nền kinh tế trình độ tháp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao động rẻ.

Số lượng thị trường xuất khẩu hàng hóa Việt Nam được mở rộng, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu lớn chỉ tập trung vào một vài thị trường quen thuộc. Những mặt hàng xuất khấu chủ lực bị phụ thuộc vào một vài thị trường trọng điểm nên dễ gặp rủi ro lớn khi các thị trường này có biến động. Cao su và rau quả phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, thủy sản phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, gạo phụ thuộc thị trường Đông Nam Á, dệt may chủ yếu xuất sang thị trường Hoa Kỳ, da giày phụ thuộc chủ yếu vào thị trường EU. Xuất khẩu cà phê nhân phụ thuộc vào vài tập đoàn đa quốc gia có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội mở rộng thị trường xuất nhập khẩu nhưng chưa đủ năng lực về nhiều mặt để thâm nhập sâu rộng vào các thị trường thế giới.

Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu mới chỉ chú trọng đến bề rộng, chưa chú trọng đến nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm, những ngành mang lại giá trị gia tăng lớn; Việt Nam vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu và chuyển dịch lên trên chuỗi giá trị toàn cầu, chưa thực sự quan tâm đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ.

Còn nhiều lúng túng và bị động trong ứng phó với các rào cản thương mại mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, dư lượng kháng sinh, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá).

Kim ngạch xuất khẩu phần lớn là các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Năm 2016, riêng Samsung Việt Nam chiếm khoảng 22% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, điều đó thế hiện sự yếu kém của các doanh nghiệp nội địa, và tuy tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu nhưng thiếu bền vững trong hoạt động xuất khẩu, dễ bị tác động, và thất thu cho ngân sách nhà nước.

  1. Một số khuyến nghị

Thứ nhất, gắn việc thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với quả trình cải cách, hoàn thiện thể chế luật pháp, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng các chính sách, cơ chế phù hợp để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Thứ hai, Chính phủ cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin về tình hình hội nhập, về các FTA; và có những hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp nắm bắt, hiểu biết và có thể tận dụng tối đa các cơ hội xuất khẩu, mở rộng thị trường mới như thị trường một số nước Trung Đông, Châu Phi vốn là thị trường mà Việt Nam còn để ngỏ; Nghiên cứu khả năng đàm phán các FTA hoặc hiệp định song phương mới với các đối tác mới (như khu vực Châu Phi, Trung Đông…).

Thứ ba, đánh giá các FTA thế hệ mới, tăng cường đàm phán các FTA với các quốc gia có hàng hóa bổ sung với Việt Nam. Ví dụ như các FTA hiện tại chỉ có Nhật Bản, Ôxtrâylia, Niu Di-lân, Hàn Quốc và Liên minh Kinh tế Á – Âu có cơ cấu xuất nhập khẩu mang tính bổ sung tương đối cao, Chi – lê ở mức vừa phải. 11 đối tác còn lại (9 nước ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ) có tính bổ sung thấp, nếu như không nói là cạnh tranh với Việt Nam.

Thứ tư, chính phủ cần định hướng, ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cũng như các chế tài xử phạt nhằm giúp các doanh nghiệp nội địa thực thi các tiêu chuẩn khắt khe về lao động, công đoàn, lao động trẻ em, thực thi quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã đàm phán với Hoa Kỳ Và các thành viên TPP để các doanh nghiệp nội địa có thời gian chuẩn bị và đáp ứng được các yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt và khắt khe của các đối tác thương mại.

Thứ năm, thành công trong xuất khẩu hay không cuối cùng cũng phụ thuộc vào năng lực nội tại của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu, lựa chọn được đúng mặt hàng mà các doanh nghiệp trong nước có lợi thế, và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao cũng như phải có được sự hỗ trợ tối đa của các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.

TS. Ngô Tuấn Anh, Đại học Kinh tế quốc dân

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here