10 tháng đầu năm, lượng than nhập khẩu vào Việt Nam tăng hơn 53%

0
47
Theo tính toán của Bộ Công Thương, khai thác than toàn ngành giai đoạn 2021-2025 dự kiến đạt 40-44 triệu tấn/năm than thương phẩm. (Nguồn: vnbusiness.vn)

Australia và Indonesia là hai nhà cung cấp than lớn nhất cho Việt Nam trong 10 tháng đầu năm.

Theo tính toán của Bộ Công Thương, khai thác than toàn ngành giai đoạn 2021-2025 dự kiến đạt 40-44 triệu tấn/năm than thương phẩm. (Nguồn: vnbusiness.vn)

Theo số liệu do Tổng cục Hải quan công bố mới đây, tháng 10/2023, nhập khẩu than các loại của Việt Nam đạt hơn 3,6 triệu tấn, với trị giá hơn 495,2 triệu USD, tăng 11% về lượng và tăng 16,8% về trị giá so với tháng trước. Lũy kế 10 tháng đầu năm, nhập khẩu than đạt hơn 41,3 triệu tấn với trị giá hơn 5,85 tỷ USD, tăng mạnh 53,6% về lượng nhưng giảm 6,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.

Giá nhập khẩu bình quân ghi nhận giảm kỷ lục, đạt 141,6 USD/tấn, giảm 38,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Về thị trường, Australia là nhà cung cấp than lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm với 16,6 triệu tấn, đạt trị giá hơn 2,72 tỷ USD.

Đáng chú ý, Việt Nam đang tăng mạnh nhập khẩu mặt hàng này từ Indonesia với giá rẻ nhất trong tất cả các thị trường. Cụ thể, trong tháng 10/2023, nhập khẩu than từ quốc gia Đông Nam Á này đạt hơn 1,4 triệu tấn với trị giá hơn 141,8 triệu USD, tăng 170% về lượng và tăng 159,2% về kim ngạch so với tháng 10/2022.

Tính chung trong 10 tháng đầu năm, Việt Nam chi hơn 1,71 tỷ USD để nhập khẩu 15,4 triệu tấn than từ Indonesia, tăng 76,3% về sản lượng và tăng 27% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Indonesia là thị trường lớn thứ 2 cung cấp than cho Việt Nam, chiếm tỷ trọng 37,2% về lượng và 29,2% về kim ngạch.

Tỷ trọng than nhập khẩu giá cao ngày càng tăng. Hiện nay, than trong nước được khai thác ở mức 43-45 triệu tấn/năm, chỉ đáp ứng khoảng một nửa lượng than cho các nhà máy điện than. Với quy mô điện than như hiện tại, ước tính than trong nước chỉ đảm bảo cho sản xuất dưới 20% tổng sản lượng điện; các nhà máy còn lại phải nhập khẩu than, hoặc sử dụng than trộn.

Cũng theo Tổng cục Hải quan, lượng than nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh, từ mức 6,9 triệu tấn của năm 2015 đã tăng lên mức “đỉnh” trên 54 triệu tấn vào năm 2020. Chỉ riêng 10 tháng năm 2023, nhập khẩu than đã vượt 40 triệu tấn.

Theo tính toán của Bộ Công Thương, khai thác than toàn ngành giai đoạn 2021-2025 dự kiến đạt 40-44 triệu tấn/năm than thương phẩm. Còn tổng nhu cầu than giai đoạn này khoảng 108-110 triệu tấn. Trong đó, nhu cầu than cho sản xuất điện chiếm trên 70% so với tổng nhu cầu trong nước (khoảng 78-79 triệu tấn, bao gồm 38-39 triệu tấn than nhập khẩu).

Trung bình mỗi ngày, ngành than cung cấp khoảng 140.000 tấn than cho các nhà máy nhiệt điện, vượt 25.000 tấn so với kế hoạch. Ngoài sản lượng than nguyên khai sản xuất được, ngành than cũng chủ động nguồn than nhập khẩu để pha trộn, cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Trong những tháng cao điểm về sản xuất, trung bình mỗi tháng, Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam nhập khẩu thêm khoảng 400.000 đến 500.000 tấn than so với kế hoạch.

Theo Bộ Công Thương, năm 2023 dự kiến than thương phẩm sản xuất khoảng 57,88 triệu tấn, trong đó than thương phẩm sản xuất trong nước khoảng 44,68 triệu tấn, than nhập khẩu khoảng 13,2 triệu tấn.

Tổng than tiêu thụ khoảng 56,95 triệu tấn, trong đó cung cấp cho các hộ sản xuất điện khoảng 46,16 triệu tấn, hộ sản xuất phân bón-hóa chất khoảng 2,5 triệu tấn, hộ sản xuất xi-măng khoảng 1,74 triệu tấn, các hộ khác khoảng 4,52 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 2,03 triệu tấn.

Hoàng Nam 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here