Nhật Bản có thể giúp ASEAN phát triển “cân đối”?

0
248
bất chấp tầm nhìn tham vọng của AEC, tình hình thực tế ở khu vực Đông Nam Á vẫn tiếp tục làm dấy lên những lo ngại. (Nguồn: East Asia Forum)
Bất chấp tầm nhìn tham vọng của AEC, tình hình thực tế ở khu vực Đông Nam Á vẫn tiếp tục làm dấy lên những lo ngại. (Nguồn: East Asia Forum)

Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nhóm các nước ASEAN 6 và ASEAN 4 luôn là rào cản khiến các nước thành viên khó “đi chung bước” để đạt được những mục tiêu lớn của Cộng đồng ASEAN. Nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản đang có nhiều nỗ lực giúp Hiệp hội thu hẹp khoảng cách này.

Tham vọng và thực trạng

Sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào tháng 12/2015 là một cột mốc quan trọng trong xu hướng hòa nhập kinh tế của khu vực Đông Nam Á.

AEC hướng tới xây dựng một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất thông qua các biện pháp dỡ bỏ các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng cũng như tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển tự do hơn của dòng vốn, các biện pháp về các lĩnh vực ưu tiên hội nhập. AEC có mục tiêu đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao trên cơ sở thực thi chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại điện tử. AEC 2025 là sự tiếp nối của AEC 2015, hướng tới một nền kinh tế ASEAN hội nhập sâu rộng, gắn kết chặt chẽ, tăng trưởng cao, và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bất chấp tầm nhìn tham vọng của AEC, tình hình thực tế ở khu vực Đông Nam Á vẫn tiếp tục làm dấy lên những lo ngại. Một trong số đó là sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa 10 nước thành viên ASEAN có thể trở thành một rào cản đối với sự phát triển tính thống nhất và đoàn kết thực sự trong khu vực.

Thu nhập bình quân đầu người tại Singapore (quốc gia giàu có nhất khu vực) cao gấp khoảng 6 lần thu nhập ở nước nghèo nhất là Myanmar. Các nhà nước thành viên ASEAN coi sự chênh lệch lớn về thu nhập này là một vấn đề cấp bách. Để tạo điều kiện cho sự phát triển cân bằng, AEC đã yêu cầu các nước thành viên lâu đời hơn của ASEAN hỗ trợ các thành viên mới hơn (hay còn gọi là nhóm các nước CLMV: Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) trong nỗ lực nâng cao năng lực kinh tế của họ.

Kể từ năm 2000, khi các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua Sáng kiến vì sự Hòa nhập ASEAN, sáu nước thành viên kỳ cựu đã hỗ trợ CLMV trong 5 lĩnh vực chủ chốt: lương thực và nông nghiệp, thương mại quốc tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giáo dục, y tế và sức khỏe.

Theo một nghiên cứu mới đây, các nước CLMV được phân chia bởi một cấu trúc kinh tế hai tầng: Campuchia và Việt Nam đã thành công trong việc giảm bớt chênh lệch thu nhập với các nước ngang hàng giàu có hơn và lâu đời hơn ở ASEAN, trong khi Lào và Myanmar vẫn bị tụt lại phía sau.

Sáng kiến và sự đồng hành

Là quốc gia nằm bên ngoài khu vực Đông Nam Á, chính phủ Nhật Bản nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc thúc đẩy sự phát triển cân bằng ở ASEAN. Năm 2011, Nhật Bản đã công bố kế hoạch hành động ASEAN-Nhật Bản. Theo sáng kiến này, Nhật Bản cung cấp viện trợ nước ngoài cho các nước CLMV nhằm thu hẹp sự chênh lệch về thu nhập giữa các thành viên ASEAN. Đặc biệt, Nhật Bản tập trung vào 6 lĩnh vực: hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, thiết lập sự hợp tác về công nghệ, tổ chức các cuộc hội thảo, triển khai các chương trình huấn luyện, đẩy mạnh các mối quan hệ lao động hài hòa và hỗ trợ cho các chính phủ địa phương.

Nhật Bản cung cấp hai hình thức viện trợ kinh tế cho các quốc gia CLMV: các khoản trợ cấp song phương mà các nước nhận trợ cấp không có nghĩa vụ phải hoàn trả và các khoản cho vay song phương có yêu cầu hoàn trả đi kèm lãi suất.  Myanmar là nước hưởng trợ cấp không hoàn trả lớn nhất từ Nhật Bản. Năm 2017, Nhật Bản đã công bố 30 dự án trợ cấp mới cho các nước CLMV mà trong đó có đến một nửa được thực hiện ở Myanmar.

Các dự án lớn hưởng các khoản trợ cấp từ Nhật Bản liên quan đến sự cung cấp lương thực khẩn cấp và phát triển trang thiết bị phát sóng truyền thanh, truyền hình, mỗi khoản nhận 2,2 tỷ yên Nhật (tương đương 19,8 triệu USD). Campuchia cũng là một nước hưởng trợ cấp nhiều của Nhật Bản trong năm 2017 (3,2 tỷ yên, tương đương 28,8 triệu USD), trong đó có các khoản tiền dành cho việc phát triển hệ thống cung cấp nước cũng như công tác dọn sạch bom mìn và hỗ trợ các nạn nhân của bom mìn còn sót lại.

Các nước CLMV cũng là một trong những điểm đến ưa thích của các khoản cho vay song phương của Nhật Bản. Năm 2017, chính phủ Nhật Bản đã hứa cho vay hơn 20 tỷ yên (khoảng 180,1 triệu USD) phục vụ 24 siêu dự án trên toàn thế giới, và bên được vay chủ yếu là các nước CLMV, nơi 6/24 dự án này được thực thi. Tóm lại, Nhật Bản hứa cung cấp các khoản vay cho 12 dự án ở các nước CLMV, trong đó có 6 siêu dự án.

Myanmar, nơi có tới 7 dự án đang được thực thi, là đất nước được hưởng nhiều khoản vay nhất trong các nước CLMV từ Nhật Bản. Các dự án này bao gồm xây dựng cầu bắc qua Sông Bago (31 tỷ yên, tương đường 279,2 triệu USD), cải tạo đường sắt nối Yangon-Mandalay (25 tỷ yên, tương đương 225,2 triệu USD) và cải thiện hệ thống cung cấp nước. Nhật Bản cũng hứa sẽ cho Việt Nam vay 90,1 tỷ yên (811,7 triệu USD) để thực hiện một siêu dự án là xây dựng tuyến tàu điện ngầm tại thành phố Hồ Chí Minh.

Trong một khuôn khổ hẹp hơn, hợp tác Mekong – Nhật Bản thời gian qua cũng có nhiều tiến triển tích cực. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 12 ở Philippines (tháng 1/2007), Nhật Bản đã đề xuất Chương trình quan hệ đối tác Mekong – Nhật Bản tập trung vào ba lĩnh vực ưu tiên, bao gồm: Hội nhập kinh tế tiểu vùng (cải thiện kết cấu hạ tầng, tăng cường liên kết khu vực…); Mở rộng thương mại – đầu tư giữa Nhật Bản và khu vực Mekong; Theo đuổi các giá trị phổ cập và mục tiêu chung của khu vực như xóa đói, giảm nghèo, mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ môi trường…

Giai đoạn 2016 – 2018, Hợp tác Mekong – Nhật Bản triển khai “Chiến lược Tokyo mới 2015” và “Kế hoạch hành động Mekong – Nhật Bản nhằm thực hiện Chiến lược Tokyo mới 2015” với mục tiêu đạt được “tăng trưởng chất lượng” và tiếp tục phát triển kinh tế một cách bền vững và đồng đều tại tiểu vùng Mekong.

Các lĩnh vực hợp tác bao gồm: Phát triển hạ tầng công nghiệp và tăng cường kết nối “cứng” trong tiểu vùng Mekong và với các khu vực bên ngoài; Phát triển các ngành công nghiệp và chuỗi giá trị khu vực, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường kết nối thể chế, kinh tế và giao lưu nhân dân; Phát triển bền vững hướng tới thực hiện một Mekong xanh; Tăng cường phối hợp giữa hợp tác Mekong – Nhật Bản với các cơ chế hợp tác khu vực, tổ chức quốc tế.

Hà Phương (theo East Asia Forum)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here