KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HOA KỲ (phần cuối)

0
794

        2.3 Mô hình HTX Wyoming (hay mô hình Doanh nghiệp HTX)

Sự thành công của HTX thế hệ mới và sự quan tâm ngày càng tăng về nâng cao giá trị gia tăng của nông nghiệp đã khuyến khích đổi mới HTX hơn nữa.

Nhằm khắc phục việc hạn chế thu hút vốn đầu tư vào HTX, của những người không phải là thành viên HTX, một nhóm nông dân chăn nuôi cừu ở Wyoming đã khởi xướng một đạo luật mới của bang về HTX và đã được thông qua vào năm 20011 Luật này hợp pháp hóa việc thành lập một tổ chức lai giữa HTX và công ty trách nhiệm hữu hạn, được gọi là mô hình HTX Wyoming.

HTX Wyoming gồm hai loại thành viên: (1) thành viên là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX; và (2) thành viên là nhà đầu tư tức là thành viên nhưng không sử dụng sản phẩm, dịch vụ HTX mà đầu tư cổ phần để thu lợi nhuận. Tất cả thành viên HTX (cả thành viên sử dụng dịch vụ và thành viên là nhà đầu tư) đều có quyền biểu quyết, mặc dù điều lệ HTX có thể quy định quyền bỏ phiếu phức tạp hơn. Luật không quy định bắt buộc phải cho nhà đầu tư quyền bỏ phiếu, do đó điều lệ HTX có thể quy định không cho thành viên là nhà đầu tư quyền bỏ phiếu.

Quyền bỏ phiếu của các thành viên là người sử dụng dịch vụ HTX được tính gộp. Ví dụ, giả thiết các thành viên sử dụng dịch vụ chiếm 60 trên 100 quyền biểu quyết của HTX, và đối với một quyết định nào đó của HTX chỉ có 40 thành viên sử dụng dịch vụ HTX biểu quyết ủng hộ quyết định đó. Trong trường hợp này, dù chỉ có 40 thành viên ủng hộ quyết định nhưng được tính là cả 60 thành viên sử dụng dịch vụ ủng hộ quyết định của HTX. Bất cứ thành viên nào của HTX (thành viên sử dụng dịch vụ và thành viên đầu tư) đều có thể được bầu vào hội đồng quản trị (HĐQT). Tuy nhiên, HĐQT phải có ít nhất một thành viên sử dụng dịch vụ HTX và các thành viên sử dụng dịch vụ phải chiếm ít nhất 50% quyền biểu quyết của HĐQT. Thông qua cơ chế này, luật cung cấp căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền kiểm soát HTX của các thành viên sử dụng dịch vụ.

Lợi nhuận ròng của HTX được chia làm hai phần: một phần chia theo mức độ sử dụng dịch vụ HTX và một phần chia theo vốn đầu tư. Việc phân bổ lợi nhuận ròng của HTX cho hai phần này như thế nào do HTX quy định, tuy nhiên, luật quy định phần tiền dành để chia theo mức độ sử dụng dịch vụ của thành viên phải chiếm ít nhất 15% tổng lợi nhuận ròng phân chia.

HTX Wyoming có đủ tư cách cho việc thiết lập quan hệ đối tác, có tư cách của công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc có tư cách của HTX. Việc lựa chọn tư cách nào phụ thuộc vào quyết định của HĐQT.

Ưu điểm nhất của mô hình HTX Wyoming là khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư bên ngoài như là các công ty đầu tư vốn mạo hiểm. Việc thu hút vốn từ nhà đầu tư bên ngoài vào HTX tạo thuận lợi cho các dự án mới trở thành hiện thực. Tuy nhiên, mô hình HTX Wyoming cũng có hạn chế. Có thể hạn chế nhất là mô hình này không được “hưởng quyền miễn trừ chống độc quyền như quy định tại Luật Capper-Volstead. Ngoài ra, nó cũng không đủ điểu kiện để nhận vốn tín dụng từ ngân hàng HTX của Hoa Kỳ (CoBank).

  1. Khung pháp lý và chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTXNN Hoa Kỳ

HTXNN ở Hoa Kỳ hoạt động dưới sự chi phối của cả luật bang và luật liên bang. Các bang quy định khung pháp lý cho hoạt động của HTX. Luật liên bang liên quan nhiều nhất đến HTX ở khía cạnh chống độc quyền và chính sách ưu đãi, hỗ trợ.

Năm 1865, đạo luật thương mại HTX đầu tiên được ra đời tại bang Michigan. Sau đó, hàng loạt bang đã ban hành các đạo luật điều chỉnh hoạt động của HTX. Năm 1911, có 12 bang ban hành luật HTX đặc biệt. Sau năm 1920, rất nhiều bang đã ban hành đạo luật HTX. Các quy định cơ bản của các luật này theo nguyên tắc Rochdale. Vcơ bản, nó gồm các quy định sau: (1) HTX có thể phát hành cổ phần nhưng số lượng cổ phần năm giữ bởi mỗi thành viên là hạn chế; (2) Quyền biểu quyết gắn với tư cách thành viên chứ không gắn với số tiền đầu tư; (3) Mỗi thành viên là một phiếu bầu; (4) Các HTX tự quyết định cách thức phân chia lợi nhuận ròng.

Năm 2001, bang Wyoming đã ban hành dạo luật mới về HTX cho phép mô hình HTX Wyoming. Sau đó một số bang khác cũng ban hành các đạo luật tương tự để cho phép áp dụng mô hình HTX Wyoming như bang Minnesota (2003), Wisconsin (2004).

Ở Cấp độ chính phủ liên bang, HTXNN là đối tượng chịu chi phối bởi luật chống độc quyền Sherman, ban hành năm 1890. Đen năm 1922, đạo luật Capper-Volstead cho quyền người nông dân được thống nhất và thưomg mại hoặc chế biến sản phẩm của họ trong các HTX được miễn trừ vi phạm đạo luật chống độc quyền. Tuy nhiên, sự miễn trừ này chỉ có được khi đáp ứng đủ ba điều kiện sau: (1) Thành viên HTX phải là người sản xuất nông nghiệp; (2) HTX tuân theo nguyên tắc một thành viên là một phiếu bầu và cổ tức trên vốn của thành viên được giới hạn ở mức tối đa 8%/năm; (3) Hoạt động kinh doanh với ngoài thành viên phải nhỏ hơn 50% tổng hoạt động của HTX.

Chính phủ Hoa Kỳ có nhiều hỗ trợ cho HTXNN thông qua việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, nghiên cứu, thông tin và tín dụng; cấp đất để xây dựng hệ thống các trường đại học có các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông giúp lập nên nhiều HTXNN vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Năm 1914, Chính phủ Hoa Kỳ đã phê duyệt chương trình khuyến nông cho HTXNN. Đạo luật thương mại HTX năm 1926 đã mở rộng và chính thức hóa vai trò của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ và khuyến khích phát triển HTXNN. Cục HTX và Kinh doanh Nông thôn (Rural business and Cooperative Service) cũng được thành lập để thực hiện các hoạt động nghiên cứu, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và thông tin để thúc đẩynhận thức về HTX.

Đạo luật thương mại nông nghiệp năm 1929 đã thiết lập một ủy ban Tư vấn Sản phẩm cho HTX và thành lập ủy ban Nông trại Liên bang (Federal Farm Board) chịu ưách nhiệm phát triển phong trào HTX.

Năm 1916, Chính phủ Hoa Kỳ đã phê chuẩn Đạo luật Tín dụng Nông trại (Farm Loan Act). Từ đó, ngân hàng đất liên bang đã được thành lập để cung cấp tín dụng cho việc mua đất. Đạo luật Tín dụng Nông trại (Farm Credit Act) năm 1933 giúp xây dựng Hiệp hội tín dụng sản xuất. Hiệp hội Tín dụng Sản xuất đã thiết lập 13 ngân hàng HTX (hiện nay đã được hợp nhất thành một ngân hàng gọi là CoBank) để cung cấp tín dụng cho HTX và các hộ nông dân tham gia thành lập HTX.

Nhìn chung, HTX Hoa Kỳ chịu các loại thuế và mức thuế giống như các công ty khác, như thuế thu nhập, thuế doanh thu, bảo hiểm xã hội, thuế bất động sản, thuế sở hữu cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môn bài, và bất cứ loại thuế nào mà các công ty phải trả. Tuy nhiên, cả chính quyền bang và liên bang đều có những quy định đặc biệt về ưu đãi thuế cho HTX.

Theo Bộ luật Liên bang về thu nhập nội địa, tất cà lợi nhuận của HTX được đánh thuế ở cấp độ HTX hoặc ở cấp dộ thành viên. Theo đó, nếu HTX phân chia lợi nhuận cho thành viên dựa trên cơ sở mức độ sử dụng dịch vụ HTX và có sự đồng ý của thành viên (gọi là lợi nhuận phân chia đủ điều kiện) thì HTX không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần lợi nhuận chia cho thành viên này. Theo luật thuế thu nhập nội bộ năm 1962 thì lợi nhuận phân chia đủ điều kiện đòi hỏi (a) có sự đồng ý của thành viên; và (b) ít nhất 20% số tiền lợi nhuận chia lại cho thành viên phải được trả bằng tiền mặt, và không nhiều hơn 80% còn lại được trả sau này. Từ đó, các thành viên phải ưả thuế thu nhập cá nhân cho 100% số tiền lãi được HTX chia cho. Mức 20% được giả thiết là thành viên cần ít nhất 20% tiền mặt để trả thuế.

Cơ quan thuế sẽ chấp nhận việc có sự đồng ý của thành viên khi rơi vào một trong ba trường hợp sau: (1) thành viên đồng ý bằng văn bản; (2) thành viên gia nhập, hoặc tiếp tục là thành viên của HTX có điều lệ quy định rằng tư cách thành viên gắn liền với sự đồng ý và thành viên đã nhận được một bản điều lệ; (3) thành viên tán thành và lĩnh séc tiền lợi nhuận phân chia với văn bản tuyên bố rõ ràng rằng việc tán thành và nhận séc là sự đồng ý chấp nhận tiền lợi nhuận phân chia này là thu nhập chịu thuế.

Nếu thành viên không đồng ý hoặc số tiền mặt trả cho thành viên không đủ 20%, thì số tiền lợi nhuận chia cho thành viên dựa trên mức độ sử dụng dịch vụ HTX sẽ được xem là lợi nhuận phân chia không đủ điều kiện. Trong trường hợp này, HTX phải trả thuể thu nhập doanh thu cho phần lợi nhuận chia cho thành viên và thành viên phải trả thuế thu nhập câ nhân cho phần lợi nhuận nhận từ HTX.

Lợi nhuận của HTX mà không phân chia sẽ bị đánh thuế ở tỷ lệ thuế áp dụng cho công ty. Hơn nữa, bất cứ phần lợi nhuận nào được trả như cổ tức sẽ chịu hai lần thuế: HTX trả thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi trả cổ tức vả thành viên trả thuế thu nhập cá nhân khi nhận cổ tức.

Bộ luật Liên bang về Thu nhập Nội địa cho phép HTX thương mại sản phẩm và cung cấp vật tư đầu vào có thể được hưởng một số giảm trừ thuế bổ sung. Hai trường hợp được giảm trừ là: (1) thu nhập không đến từ dịch vụ cho thành viên (ví dụ như tiền lãi gửi ngân hàng, tiền cho thuê,…) và thu nhập này được phân phối lại cho thành viên dựa trên cơ sở mức độ sử dụng dịch vụ; (2) cổ tức được trả cho cổ phiếu. Tuy nhiên, điều kiện để được giảm trừ thuế rất khó khăn, nên hầu hết các HTX thương mại sản phẩm và cung cấp vật tư đầu vào không được giảm trừ. Ví dụ, một HTX thương mại nông sản phải thực hiện kinh doanh với khách hàng không phải thành viên ít hơn 50% tổng doanh thu HTX, hoặc HTX cung cấp vật tư đầu vào nông nghiệp không được chiếm hơn 15% doanh thu với không phải thành viên.

Tóm lại, mặc dù có một vài ưu đãi đặc biệt về thuế thu nhập doanh nghiệp cho HTX ở Hoa Kỳ, nhưng điều kiện để được hưởng ưu đãi khó khăn. Vcơ bản, HTX bình đẳng với doanh nghiệp về việc đóng thuế. HTX chủ yếu nhận được hỗ trợ từ nhà nước về đào tạo, khuyến nông, nghiên cứu, thông tin và tiếp cận tín dụng ưu đãi

  1. Bài học kinh nghiệm

Hợp tác xã nông nghiệp có vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam và nhận được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ. Điều này được thể hiện qua nhiều văn kiện của Đảng, Chính phủ. Khung pháp lý cho hoạt động của HTX và chính sách ưu đãi, hỗ trợ thường xuyên được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn phát triển HTXNN ở Việt Nam thời gian qua.

Việt Nam đã thông qua Luật HTX năm 2012 theo hướng tiếp cận với các nguyên tắc của Liên minh HTX Quốc tế. Nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ dành cho HTXNN như: ưu đãi thuế, tín dụng, tiếp cận đất; hỗ trợ nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý HTX và thành viên, hỗ trợ tiếp cận khoa học công nghệ, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, áp dụng quy trình sản xuất bền vững, hỗ trợ quảng bá giới thiệu sản phẩm,… Nhờ đó, thời gian qua HTXNN của Việt Nam đã có bước phát triền mới, như nhận thức về HTX thay đổi; số lượng HTXNN tăng từ 9.628 năm 2012 lên 10.026 năm 2016; nhiều mô hình HTX điển hình về tổ chức, hiệu quả hoạt động đã xuất hiện và ngày càng có xu hướng mở rộng. Tuy nhiên, HTXNN của Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế như nhiều HTXNN hoạt động yếu kém, quy mô HTX nhỏ (vốn, doanh thu, dịch vụ cung cấp, thành viên). Những hạn chế này có nguyên nhân từ bản thân nội tại của HTX, cũng như môi trường pháp lý cho tổ chức và hoạt động của HTXNN của Việt Nam.

Từ kết quả phân tích trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm từ phát triển HTXNN ở Hoa Kỳ cho Việt Nam là:

Thứ nhất, môi trường pháp lý tạo thuận lợi cho HTX lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với điều kiện thực tế cùa người nông dân. Họ được tự do lựa chọn giữa loại hình HTX và doanh nghiệp cũng như thuận lợi trong việc chuyển đổi từ HTX thành doanh nghiệp. Môi trường pháp lý đảm bảo HTX được đối xử bình đẳng và phải cạnh tranh với các tác nhân thị trường khác.

Thứ hai, HTX thuận lợi trong việc thu hút vốn của nhà đầu tư và mở rộng phục vụ cho khách hàng không phải là thành viên. Điều này tạo thuận lợi cho HTX mở rộng hoạt động và tăng sức cạnh tranh với các tác nhân thị trường khác.

Thứ ba, việc cho phép nhà đầu tư tham gia HTX và phục vụ khách hàng không phải là thành viên nhưng khung pháp lý vẫn đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của HTX là thành viên là chủ sở hữu, hưởng lợi ích của HTX và tự chủ.

Thứ tư, ưu đãi thuế của nhà nước chỉ dành cho phần lại nhuận phân chia cho thành viên theo mức độ sử dụng dịch vụ. Cách thức ưu đãi này khuyến khích HTX cung cấp dịch vụ vợi giá hợp lý cho thành viên hoặc chia phần lớn lợi nhuận cho thành viên.

Thứ năm, các quy định về ưu đãi thuế đòi hỏi HTX phải quản lý tài chính đầy đủ, công khai, minh bạch. Điều đó tạo tin tưởng cho thành viên và có căn cứ để nhà nước có thể hỗ trợ tiếp cận tín dụng.

Thứ sáu, việc cho phép thành viên chuyển nhượng cổ phần trong HTX khuyến khích thành viên phát triển HTX với mong muốn nhận được giá bán cao khi chuyển nhượng./.

Hoàng Vũ Quang

(Châu Mỹ ngày nay, số 10/2017)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here