Việt Nam từng lọt vào nhóm 20 nền kinh tế nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới, nhưng việc nhiều nhà đầu tư chuyển đơn hàng đi nước khác khiến Hà Nội có thể mất đi cơ hội cạnh tranh FDI với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia cùng nhiều đối thủ khác.
Năm 2020, Việt Nam trở thành điểm sáng thu hút chuyển dịch FDI với thành quả chống dịch hiệu quả. Tuy nhiên, thời gian giãn cách kéo dài vừa qua vì dịch bệnh đã khiến Việt Nam dần đánh mất thế mạnh của mình. Có người còn cho rằng vị thế dẫn đầu của Việt Nam trong cuộc đua giành FDI với các đối thủ như Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Mexico đang dần bị lung lay bởi bức tranh ảm đảm do COVID-19 phủ bóng.
Năm 2020, Việt Nam là một trong những trung tâm đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc, trong bối cảnh các doanh nghiệp trên thế giới đẩy nhanh đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Giữa lúc FDI toàn cầu sụt giảm hàng chục phần trăm, dòng vốn FDI tại Việt Nam vẫn được duy trì ổn định.
Tuy nhiên, đợt dịch thứ 4, vào đầu năm 2021 bùng phát buộc chính quyền phải ban hành các biện pháp phong tỏa, giãn cách kéo dài tại TP.HCM và các tỉnh phía Nam. Điều này đã làm tình thế thay đổi theo hướng tiêu cực, khiến một số doanh nghiệp FDI cho biết họ “đang suy nghĩ lại”, “cân nhắc lại”, “xem xét lại”.
Trên thực tế, như hàng loạt hiệp hội doanh nghiệp đã phản ánh (gần nhất là 4 hiệp hội AmСham (Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ), EuroCham (Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu), KoCham (Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc) và US-ABC (Hội đồng kinh doanh Mỹ – ASEAN), đã có nhiều đơn hàng FDI vuột khỏi tầm tay Việt Nam và đến với các quốc gia khác. Điển hình như theo khảo sát giữa tháng 8/2021 của Hiệp hội thương mại Mỹ tại Việt Nam, 20% doanh nghiệp đã chuyển một phần đơn hàng ra khỏi Việt Nam, 14% đang ở bước dự định, 13% đã ngừng hoạt động, 50% hoạt động dưới 50% công suất.
Các nhà bán lẻ xuất khẩu hàng may mặc, giày dép chính là những người chịu thiệt hại nặng nề nhất. Các nhà máy tại Việt Nam ngừng hoạt động là một sự cố lớn khiến guồng máy sản xuất giảm hoặc ngừng hoạt động, vào mùa bận rộn nhất trong năm.
Theo nhà phân tích Camilo Lyon thuộc BTIG (một công ty dịch vụ tài chính tại Mỹ), bình luận với CNBC rằng, tác động của việc ngừng trệ sản xuất quý III/2021 chưa phải là xấu nhất và điều tồi tệ hơn vẫn còn ở quý IV/2021, thậm chí cho đến nửa đầu năm 2022. Nhiều khả năng, cần 5-6 tháng để nhà máy hoạt động bình thường trở lại sau mở cửa.
Một số doanh nghiệp chọn phương án thay thế là đưa đơn hàng quay trở lại Trung Quốc để kịp cho mùa mua sắm. Một số thương hiệu lớn như Nike và Gap, cùng với khoảng 80 công ty giày dép và may mặc khác, đã gửi thử cho Tổng thống Mỹ Joe Biden kêu gọi tăng tốc tài trợ vaccine cho Việt Nam vì “sức khỏe của ngành công nghiệp may mặc Mỹ phụ thuộc trực tiếp vào sức khỏe của ngành công nghiệp Việt Nam”.
Một điểm sáng là trong lĩnh vực sản xuất đồ điện tử, hai ông lớn là Samsung và LG vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Các đại diện hiệp hội cho rằng dù lượng đơn hàng FDI sụt giảm, nhưng điều đó không đồng nghĩa với doanh nghiệp rời khỏi Việt Nam.
Trước đó, Chủ tịch Eurocham tại Việt Nam Alain Cany cũng cho biết có sự dịch chuyển đơn hàng nhưng chưa doanh nghiệp châu Âu nào rời đi.
Trong khi đó, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam Andrew Jeffries khẳng định, thông tin doanh nghiệp FDI rời khỏi Việt Nam “là chưa chính xác”. Ở đây đã có tình trạng đơn đặt hàng được chuyển ra khỏi Việt Nam, “chứ không hẳn doanh nghiệp đi khỏi đây”.
Ngân hàng HSBC đánh giá, đợt bùng phát dịch vừa qua đã đặt ra câu hỏi về khả năng trụ vững của chuỗi cung ứng Việt Nam, nhất là các ông lớn công nghệ. Dù vậy, nền tảng vĩ mô vững mạnh của Việt Nam cùng với tỷ lệ tiêm chủng sớm đạt 70% dân số sẽ giúp các nhà đầu tư gạt bỏ những biến động ngắn hạn do COVID-19. Tuy có nhiều thách thức, Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trong thời gian tới.
Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam nhấn mạnh, Việt Nam vẫn là điểm sáng thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp tục hưởng lợi trong quá trình chuỗi cung ứng trên toàn cầu đang thay đổi, sự căng thẳng thương mại Mỹ – Trung, cũng như sự gián đoạn sản xuất ở các khu vực khác.
Nếu không mở cửa, Việt Nam sẽ mất nhiều “đại bàng”. Dù vậy, nhiều chuyên gia cho rằng giải pháp này chỉ bù đắp tạm thời cho phần công suất bị mất tại Đông Nam Bộ do dịch bệnh và doanh nghiệp vẫn cần tính toán lại kế hoạch sản xuất.
Trưởng đại diện JETRO Hà Nội kiêm Phó chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam Takeo Nakajima cho biết nếu tiếp tục duy trì thời hạn giãn cách thêm vài tháng, các công ty toàn cầu buộc phải tìm giải pháp thay thế.
Đã có sự thay đổi nhanh chóng trên bản đồ hồi phục COVID-19 trong thời gian qua. Một ví dụ là Indonesia, khi chỉ mới 2 tháng trước còn rất tiêu cực, nhưng hiện đã vượt trội so với Việt Nam.
Khi Mexico lao đao vì dịch bệnh, một phần đơn hàng đã được chuyển sang Việt Nam. Tuy vậy, dòng vốn hiện đang đảo chiều do Mexico đã kiểm soát được tình hình. Trong khi đó, một quốc gia khác là Thái Lan, dù vẫn chịu ảnh hưởng của dịch nhưng vẫn duy trì hoạt động sản xuất, không để doanh nghiệp phải chuyển dịch đơn hàng.
Ông Takeo Nakajima cho biết, thời điểm trước COVID-19, rủi ro với các doanh nghiệp Nhật Bản khi kinh doanh tại Việt Nam là “tăng lương” và “các quy định và biện pháp hành chính không rõ ràng”. Ở thời điểm hiện tại, những rủi ro mới mà họ phải đối mặt là “không đủ tiêu chuẩn y tế” và “các biện pháp phòng ngừa quá nghiêm ngặt”.
Ngoài việc khiến các đơn hàng bị đưa khỏi Việt Nam, việc đóng cửa kinh tế còn làm trì hoãn dòng vốn FDI tiềm năng.
Theo Phó Giám đốc điều hành khu vực Hội đồng Kinh doanh Mỹ–ASEAN (USABC) Vũ Tú Thành, khi chính sách chống dịch của Việt Nam còn chưa được thực thi rõ ràng, rủi ro lớn nhất là doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn sẽ chỉ xem Việt Nam như một thị trường bổ sung công suất thay vì là địa bàn chiến lược.
Trong bối cảnh Việt Nam và các quốc gia lân cận đã là trung tâm sản xuất quan trọng của thế giới, sự gián đoạn sản xuất tại ASEAN sẽ ảnh hưởng nặng nề đến chuỗi cung ứng toàn cầu.
Mới đây, Thủ tướng Việt Nam đã đưa ra thông điệp về việc “sống chung an toàn với COVID-19”. Đây là điều mà rất nhiều doanh nghiệp đang mong đợi. Đại diện Hội đồng kinh doanh Mỹ – ASEAN cho biết thông điệp này cần được hiện thực hóa sớm nhất có thể.
Ngoài việc ban hành các tiêu chí kiểm soát dịch, Việt Nam cần có biện pháp cụ thể đảm bảo sản xuất kinh doanh an toàn, tạo điều kiện cho người dân, công nhân, người lao động… đồng thời đảm bảo lưu thông hàng hóa và không ngăn sông cấm chợ.
Nhiều doanh nghiệp FDI đã đưa ra cảnh báo, đầu tư sẽ chững lại nếu kế hoạch phục hồi và tái mở cửa không rõ ràng. Do nhiều bất ổn mà kế hoạch đầu tư của nhiều doanh nghiệp hiện đang bị trì hoãn. Nếu không có chính sách nhập cảnh hợp lý, các nhà đầu tư tiềm năng mới sẽ không đến. Vì vậy, tình hình hiện nay đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải có quyết sách nhanh chóng, đúng đắn để giảm thiểu tổn thất.
Bất chấp những rủi ro trên, Việt Nam vẫn được đánh giá là điểm đến hấp dẫn nhờ xây dựng được nền tảng vĩ mô vững chắc.
Theo ông Thành, di chứng của đợt dịch thứ 4 vẫn sẽ còn kéo dài và kéo dài bao lâu thì còn phụ thuộc vào các chính sách cụ thể của chính phủ trong 1-2 tháng tới. Từ trước đến nay, tư duy “tắt-bật” nền kinh tế của Việt Nam thuần túy là về phương diện y tế. Theo các nhà hoạch định chính sách, việc mở cửa theo lộ trình nào, 30% hay 70%, sẽ quyết định doanh nghiệp hoạt động với công suất đó. Tuy nhiên, đây lại không phải là cách doanh nghiệp tư duy.
Với các doanh nghiệp FDI đặt hàng quy mô lớn, điều cốt yếu nhất là tính ổn định của chuỗi cung ứng. Kể cả khi kinh tế mở cửa trở lại, doanh nghiệp sẽ không hoạt động theo công suất mà nhà hoạch định chính sách kỳ vọng. Doanh nghiệp sẽ nhìn vào thị trường để thấy mức công suất nào là khả thi và ổn định nhất, tuỳ vào cách tiếp cận chống dịch của thị trường.
Theo ông Vũ Tú Thành, với ảnh hưởng của đợt dịch lần 4, kế hoạch mở rộng hoặc đầu tư mới của nhóm câu lạc bộ “tỷ đô” trong ngành xuất khẩu điện tử, giày da, may mặc, đồ gỗ… khó đảm bảo như cam kết. Nếu Chính phủ gỡ được các nút thắt căn bản, lượng FDI của các ngành thâm dụng vốn lớn như năng lượng sẽ có thể tăng mạnh.
Trên đài Sputnik, PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, việc giãn cách xã hội như vừa qua tất yếu gây đứt gãy, gián đoạn chuỗi cung ứng. Hậu quả là đã có doanh nghiệp nước ngoài chuyển dịch đơn hàng khỏi Việt Nam.
Ông cho rằng ngoài những khó khăn mà các doanh nghiệp nước ngoài đã nêu, việc tạm thời đóng cửa, phong tỏa để ưu tiên phòng chống dịch bệnh như vừa qua còn ảnh hưởng tiêu cực đến chiến lược phát triển, thu hút đầu tư dài hạn, giảm cơ hội đón dòng vốn chuyển dịch FDI. Ông Thiên cũng đề cập đến việc một bộ phận doanh nghiệp trong nước cũng bị ảnh hưởng do các đối tác của họ là doanh nghiệp nước ngoài gặp khó.
Hướng đến giải pháp, ông Trần Đình Thiên cho rằng nên thay đổi cách thức phong tỏa ổ dịch diện rộng như vừa qua, không hành chính cứng nhắc, gây phiền hà, tăng chi phí cho doanh nghiệp. Ông lấy ví dụ về nỗ lực thay đổi của Hà Nội khi thành phố dừng việc phân vùng, chỉ phong toả trên phạm vi hẹp nhất để nới lỏng giãn cách xã hội, là cách làm cần được nhân rộng. PGS.TS Trần Đình Thiên khẳng định tinh thần mở cửa phải đảm bảo an toàn lưu thông kinh tế, gồm chuỗi cung ứng vận tải (logistics) và tiền tệ; an toàn sản xuất tại các khu công nghiệp.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Việt Nam cần lên kịch bản sống chung với dịch thay vì đóng cửa, giãn cách như hiện nay. Các nước trên thế giới cũng đã đi theo hướng này. Tuy nhiên, nới lỏng nhưng vẫn phải an toàn, linh hoạt, thích ứng hơn với điều kiện mới.
Chu Văn