Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam: Đặc điểm, nhân tố tác động và giải pháp thúc đẩy (Phần đầu)

0
71
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Cho đến nay, Nhật Bản là một trong số các nhà đầu tư nước ngoài chiến lược quan trọng nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhật Bản được đánh giá là hoạt động hiệu quả, nghiêm túc, chấp hành tốt các quy định pháp luật của Việt nam, góp phần giải quyết việc làm và thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam.

1. Đặc điểm FDI của Nhật Bản vào Việt Nam

Trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn giữ tốc độ đầu tư cao, ổn định, cùng với Hàn Quốc, luôn là một trong hai quốc gia dẫn đầu về FDI tại Việt Nam.

– Tính đến hết năm 2017, các doanh nghiệp Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 3.599 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 49,46 tỷ USD, xếp thứ 2 trong số các đối tác đầu tư vào Việt Nam, sau Hàn Quốc. Riêng năm 2017, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu trong tổng số 115 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký 9,11 tỷ USD, chiếm 25,4% tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ hai với 8,49 tỷ USD và chiếm 23,7%, và Singapore đứng thứ ba với 5,3 tỷ USD và 14,8%. Trong 6 tháng đầu năm 2018, trong số 87 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản tiếp tục đứng vị trí thứ nhất với tổng vốn đầu tư 6,47 tỷ USD, chiếm 31,8% tổng vốn FDI tại Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký 5,06 tỷ USD; Singapore đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,39 tỷ USD.

Về quy mô dự án: Tính đến hết năm 2015, quy mô vốn bình quân một dự án FDI của Nhật Bản tại Việt Nam vẫn nhỏ, trung bình chỉ có 14,1 triệu USD/dự án, dù có nhỉnh hơn một chút so với mức đầu tư trung bình cho một dự án FDI nói chung là 13,9 triệu USD/dự án.

Xét về lĩnh vực đầu tư, dù gần đây, Nhật Bản đã đa dạng lĩnh vực đầu tư hơn tại Việt Nam, song cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản còn nhiều bất hợp lý, vẫn có sự mất cân đối trong cơ cấu phân theo ngành, vốn FDI quá tập trung trong ngành công nghiệp, xây dựng và bất động sản trong khi đó đầu tư vào các lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu và tiềm năng phát triển. Tỷ trọng vốn đầu tư tập trung vào hai lĩnh vực công nghiệp và bất động sản phần nào đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam nhưng bên cạnh đó, những ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, tín dụng, tư vấn về kỹ thuật đang là mục tiêu phát triển thì lại chưa được quan tâm đúng mức. Cụ thể, trong 19 chuyên ngành lĩnh vực đầu tư, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn luôn chiếm vị trí áp đảo. Nếu năm 2015, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có 1.375 dự án thu hút 31,4 tỷ USD, chiếm 83,3% tổng vốn FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, thì đến hết tháng 2/2018, con số này dù đã giảm xuống còn 70,7% (35.056,81 triệu USD) với 1.614 dự án, song vẫn chiếm trên 2/3 tổng vốn FDI của Nhật Bản tại Việt Nam. Đứng thứ 2 là lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước và điều hòa với tổng sổ vốn là 5.949,26 triệu USD (chiếm 12,0% tổng vốn đầu tư), đứng thứ 3 là hoạt động kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư là 2.248,84 triệu USD (chiếm 4,5%), thứ 4 là lĩnh vực khai khoáng với tổng vốn đầu tư là 1.398,50 triệu USD (chiếm 2,8%), thứ 5 là lĩnh vực xây dựng với tổng vốn đầu tư là 1.211,34 triệu USD (chiếm 2,45%). Còn lại thuộc về các ngành lĩnh vực khác.

Tuy vậy, nhìn tổng thể ta thấy, nếu trước đây FDI của Nhật Bản thường tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thì giai đoạn gần đây đã hướng dần sang các lĩnh vực dịch vụ (như các lĩnh vực bán lẻ, phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác) và có lẽ, đây sẽ là xu hướng đầu tư chính của các nhà đầu tư Nhật Bản trong tương lai.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong xu hướng FDI này của Nhật Bản là do điều kiện kinh tế – xã hội Việt Nam đang dần biến chuyển theo hướng tích cực, tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định trong nhiều năm liền khiến tầng lớp trung lưu của Việt Nam tăng nhanh chóng, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng tăng mạnh và dự báo tiếp tục có sự tăng trưởng vượt bậc so với các quốc gia trong khu vực và thế giới thời gian tới. Theo Báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới (WB), nền kinh tế Việt Nam với quy mô 200 tỷ USD hiện nay sẽ đạt khoảng gần 1.000 tỷ USD vào năm 2035 và trên nửa số dân dự kiến sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu. Điều đó tạo ra sức hút rất lớn đối với nhà đầu tư Nhật Bản vào lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam.

Bên cạnh sự hấp dẫn của thị trường, sự tin cậy cao của người tiêu dùng Việt Nam vào độ an toàn và chất lượng của hàng hóa Nhật Bản cũng thúc đẩy các công ty thương mại Nhật Bản đầu tư thiết lập các cửa hàng bán buôn, bán lẻ tại Việt Nam. Đồng thời, những năm gần đây, lượng hàng hóa Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam đã tăng đáng kể. Nếu năm 2015, nhập siêu của Việt Nam từ Nhật Bản khoảng 14,3 tỷ USD, thì đến năm 2016, con số này đã tăng 4,6% lên hơn 15 tỷ USD và đến năm 2017, đã lên tới 16,8 tỷ USD, tức tăng 14,2%. Điều này cho thấy hàng hóa Nhật Bản đang ngày càng xâm nhập sâu vào thị trường Việt Nam.

Cùng với dịch vụ, lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam cũng bắt đầu được các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý, mặc dù số vốn đầu tư thực tế được đánh giá là chưa tương ứng với tiềm năng và mong đợi (mới chỉ có 239,34 triệu USD và 44 dự án tính đến tháng 2 năm 2018). Nhu cầu sử dụng nông sản sạch, nông sản chất lượng cao của người dân Việt Nam đang rất lớn. Nhật Bản có nền nông nghiệp phát triển, nhà đầu tư cũng có nhiều lợi thế về phát triển nông nghiệp. Đồng thời, gần đây, Nhật Bản có xu hướng mở cửa cho hàng nông sản nước ngoài vào thị trường Nhật Bản, mà một trong những kênh cung cấp đáng tin cậy là các cơ sở nông sản nước ngoài có vốn đầu tư của Nhật Bản. Đó là những lý do khiến lĩnh vực nông nghiệp nhận được sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà đầu tư Nhật Bản.

Về hình thức đầu tư, trong giai đoạn đầu, liên doanh là hình thức được các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng nhiều hơn cả, sau đó đã giảm dần. Đến tháng 2 năm 2018, có 3.054 dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư 29.177,93 triệu USD (chiếm 83,4% số dự án và 58,85% vốn). Thứ hai là hình thức liên doanh với 584 dự án và tổng số vốn là 15.619,03 triệu USD. Còn lại là các dự án theo hình thức hợp đồng BOT, BT, BTO…. Với cơ cấu đầu tư như vậy, khả năng chuyển giao và lan tỏa công nghệ cho các doanh nghiệp và lao động Việt Nam sẽ không cao.

Về địa bàn đầu tư, tuy trong những năm gần đây FDI của Nhật Bản đang ngày càng mở rộng địa bàn đầu tư đến các địa phương trên cả nước, có xu hướng giảm đầu tư vào những thành phố lớn, nhưng nhìn chung các dự án vẫn chủ yếu tập trung vào những thành phố lớn có điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi, cơ sở hạ tầng phát triển. Các dự án FDI của Nhật Bản vẫn còn tập trung chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn ở các thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai…, còn đối với những khu vực như miền Trung, khu vực Tây Nguyên, các tỉnh miền núi phía Bắc thì lại chỉ thu hút được lượng vốn khiêm tốn. Việc chênh lệch vốn đầu tư giữa các vùng sẽ tạo nên sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, gia tăng khoảng cách về mức sống, văn hóa giữa các thành phố lớn với nông thôn. Cụ thể, hiện FDI của Nhật Bản đã có mặt tại 53/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, so với 49/63 vào năm 2015. Trong đó, Thanh Hóa thu hút nhiều vốn đầu tư từ Nhật Bản nhất với 15 dự án, tổng vốn đầu tư là 12.533,37 triệu USD (chiếm 25,3% tổng vốn đầu tư), đứng thứ hai là Hà Nội với 975 dự án, với với tổng vốn đầu tư là 5.227,66 triệu USD (chiếm 10,54% tổng vốn đầu tư). Bình Dương đứng thứ 3 với 284 dự án với tổng số vốn là 4.886,23 triệu USD (chiếm 9,85% tổng vốn đầu tư). Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ tư với 1.139 dự án với tổng số vốn là 4.091,19 triệu USD. Còn lại là các địa phương khác.

– Mặc dù quy mô trung bình của các dự án FDI Nhật Bản còn nhỏ, song cho đến nay, nhiều tập đoàn lớn của Nhật Bản đã có mặt tại Việt Nam với các sản phẩm có uy tín, có sức cạnh tranh và hàm lượng kỹ thuật cao, trong đó, có nhiều sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu và tham gia tích cực vào xuất khẩu. Trong lĩnh vực hóa dầu có dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn tại Thanh Hóa, liên doanh giữa các đối tác Idemitsu Kosan Co., Ltd; Mitsui Chemicals, Inc của Nhật Bản; Kuwait Petroleum Europe B.V của Cô Oét và Tập đoàn dầu khí của Việt Nam; tổng vốn đầu tư ban đầu là 6,2 tỷ USD và đến nay dự án đã điều chỉnh tăng vốn lên 9 tỷ USD.

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin – điện tử, có Hợp doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam với Tập đoàn NTT, công ty sản xuất máy tính Fujitsu và các công ty Canon, Sony, Matsushita, Sumitomo, Sanyo. Trong ngành công nghiệp ô tô, xe máy có Toyota, Honda, Isuzu, Suzuki và Mitsubishi. Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia nhiều vào ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy ở Việt Nam. Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng cũng đã thu hút được các dự án lớn của Nhật Bản như Công ty xi măng Nghi sơn tại Thanh Hóa do Tập đoàn NM Cement liên doanh với Tổng công ty Xi măng Việt Nam, dự án sản xuất kính nổi tại Bắc Ninh của Tập đoàn Nippon Sheet Glass và Toyota Tsusho liên doanh với Công ty Viglacera… (Còn tiếp)

Lưu Ngọc Trịnh và Lê Đăng Minh

 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here