“Cú sốc Nixon” ảnh hưởng đến xu hướng phát triển của Trung Quốc và Mỹ

0
221
(VCG)
(minh hoạ)

Tờ “Sankei Shimbun” của Nhật Bản có bài báo tiêu đề “Kỷ niệm 50 năm tác động của Nixon – Sự trỗi dậy của nguồn vốn tài chính thúc đẩy mối đe dọa từ Trung Quốc”. Tác giả là thành viên ban biên tập của tờ báo Hideo Tamura, cho rằng cú sốc Nixon 50 năm trước ảnh hưởng đến xu hướng phát triển của Trung Quốc và Mỹ cho đến nay.

Ngày 16/8/1961, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Nixon đã tuyên bố ngừng trao đổi đô la Mỹ lấy vàng và tách đồng tiền cơ bản, đô la Mỹ, khỏi vàng. Điểm lại sự kiện Nixon vừa công bố chuyến thăm Trung Quốc cách đó một tháng, một loạt sự kiện được gọi là “cú sốc Nixon” đã làm chấn động thế giới. Kể từ đó, Mỹ đã đổ xô theo chủ nghĩa tư bản tài chính, và Trung Quốc đã sử dụng tài chính đô la để phát triển nền kinh tế thực.

Sự mở rộng không giới hạn của chủ nghĩa tư bản tài chính. Chính Nhật Bản, quốc gia đã rơi vào tình trạng giảm phát triền miên, lại ủng hộ hai mô hình kinh tế đối lập hoàn toàn của Mỹ và Trung Quốc. Dòng vốn chảy vào thị trường tài chính Mỹ, trong khi ngành sản xuất vào thị trường Trung Quốc. Kết quả là, nền kinh tế của đất nước đã bị thu hẹp hơn nữa, nhưng giới lãnh đạo Nhật Bản, vốn đang “bắt cá hai tay”, lại thiếu nhạy cảm về nguy cơ. Sau Thế chiến thứ hai, đồng nội tệ của Nhật Bản và các nước châu Âu đã hình thành một tỷ giá hối đoái cố định với đồng đô la Mỹ được hỗ trợ bởi vàng. Trong khi tiến tới phục hồi sau chiến tranh, dự trữ đô la của các nước châu Âu cũng đang tăng lên.

Tổng thống Pháp khi đó là De Gaulle thậm chí còn cử máy bay vận tải quân sự đến vận chuyển số vàng khối được cất giữ trong hầm của chính phủ Mỹ ở Kentucky, Mỹ, về Pháp. Đây cũng là ngòi nổ khiến Nixon tuyên bố từ bỏ chế độ bản vị vàng. Tiền giấy đô la Mỹ không có sự chứng thực bằng vàng không hơn gì một chứng chỉ tín dụng có trạng thái giống như bất kỳ loại chứng khoán nào có thể trao đổi trên thị trường chứng khoán và các thị trường tài chính khác. Nhân vật chủ đạo của hoạt động tài chính chuyển dần từ ngân hàng tiền gửi sang ngân hàng đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Tại thị trường New York, làn sóng tự do hóa tài chính trong những năm 1980 đang dâng cao, và từ những năm 1990, đa dạng hóa tài chính và toàn cầu hóa bắt đầu phát triển nhanh chóng. Bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng thông tin, các sản phẩm tài chính ảo đã bùng nổ trong 10 năm đầu thế kỷ này. Các công cụ tài chính phái sinh vốn chịu rủi ro như biến động giá còn chóng mặt hơn. Việc mở rộng không giới hạn quy mô của các sản phẩm tài chính ở Mỹ đã thu hút được nguồn vốn thặng dư từ khắp nơi trên thế giới và xây dựng một hệ thống phân phối lại toàn cầu. Mỹ đã trở thành một quốc gia con nợ thuần túy vào giữa những năm 1980, và củng cố địa vị tiền tệ cơ bản của đồng đô la và quyền bá chủ tài chính mà không cần chi một xu nào.

Sự phát triển của Trung Quốc thúc đẩy vốn nước ngoài. Ngược lại, với Trung Quốc, sau khi bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ vào cuối những năm 1970, Đặng Tiểu Bình, người coi trọng lợi ích thiết thực, bắt đầu dẫn dắt Trung Quốc trên con đường cải cách và mở cửa. Bí quyết thành công nằm ở hệ thống tỷ giá hối đoái cố định của Trung Quốc, trong đó đồng Nhân dân tệ được gắn với đồng đô la Mỹ. Sau đó, Trung Quốc đã tinh chỉnh hệ thống này để cho phép các biến động nhỏ trong tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ so với đô la Mỹ, nhưng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tổ chức phát hành tiền tệ, thực sự vẫn tuân thủ hệ thống tiêu chuẩn của đô la Mỹ. Trong khi thặng dư thương mại nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc ngày càng trở nên tích cực, dự trữ đô la của Trung Quốc đã tăng mạnh, cung cấp một lượng lớn tính thanh khoản bằng Nhân dân tệ không thể thiếu cho các hoạt động sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và thiết lập một vòng tròn đạo đức. Môi trường tài chính quốc tế cũng đóng vai trò hỗ trợ. Nguồn vốn tài chính của Mỹ, vốn phân phối lại vốn thặng dư toàn cầu, đã chuyển sang Trung Quốc, nơi được kỳ vọng sẽ có lợi nhuận cao.

Nguồn vốn thặng dư lớn nhất là các nước sản xuất dầu ở Trung Đông cho đến cuối những năm 1980, nhưng nó đã chuyển sang Nhật Bản vào nửa cuối những năm 1990. Suy thoái kinh tế sau khi bong bóng vỡ đã khiến giá cả Nhật Bản giảm chậm và rơi vào tình trạng giảm phát triền miên, không thể ngăn nổi đồng yên. Bằng cách này, thị trường đô la Mỹ đã duy trì sự ổn định trong môi trường lãi suất thấp, hỗ trợ nền kinh tế thực của Trung Quốc, vốn có nhu cầu về đô la Mỹ.

Ngoài ra, các công ty Nhật Bản đã từ bỏ thị trường nội địa đang bị thu hẹp do giảm phát, vàchuyển cơ sở sản xuất của họ, bao gồm cả các ngành công nghệ cao, sang Trung Quốc. Trước hết, hy vọng sẽ chú ý đến tỷ lệ nợ tài chính bên ngoài của Nhật Bản và nợ tài chính bên ngoài của Mỹ trên GDP. Do thiếu dữ liệu thống kê ở Nhật Bản, chỉ có thể nhìn thấy xu hướng sau năm 1997. Chúng tôi sẽ coi năm nay là năm đầu tiên của giảm phát. Xu hướng thay đổi của GDP Nhật Bản đang chuyển dần từ đứng yên sang giảm, nhưng nợ nước ngoài vẫn tăng mạnh, thậm chí sẽ có bước nhảy vọt vào năm 2020 khi đại dịch bùng phát. GDP của Mỹ tiếp tục tăng chậm và tốc độ tăng nợ nước ngoài cao hơn một chút so với GDP. Nhưng nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng trong khi Nhật Bản đang trong giai đoạn giảm phát, thì tỷ lệ nợ trên GDP của Mỹ đã bắt đầu tăng nhanh. Trong khi đó, GDP của Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng, chỉ bằng 10% của Nhật Bản vào đầu những năm 1990 song hiện đã gấp ba lần Nhật Bản.

(Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here