Thời gian qua, công tác ngoại giao kinh tế (NGKT) đã ghi nhận sự chuyển biến mạnh mẽ từ tư duy, nhận thức đến hành động trong các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; NGKT thực sự trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành Ngoại giao và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần đưa kinh tế trở thành nội dung trung tâm trong các hoạt động đối ngoại cấp cao song phương và đa phương.
Trang tin NGKT trực tuyến xin gửi tới quý độc giả bài phỏng vấn Th.s Nguyễn Trần Minh Trí, Viện Kinh tế và chính trị thế giới, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam về hiệu quả công tác NGKT trong thời gian qua, cũng như những gợi ý khuyến nghị để công tác này đạt kết quả tốt hơn.
Những năm gần đây, công tác NGKT phục vụ phát triển ngày càng được coi trọng. Chỉ thị số 15 ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác NGKT phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 là một văn bản quan trọng của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác NGKT một cách toàn diện, thực chất trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Ông nhận định như thế nào về vai trò, tầm quan trọng của công tác NGKT trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam?
Thực tiễn thế giới đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ lợi ích kinh tế là “cốt vật chất” trong mọi mối quan hệ quốc gia và quốc tế các cấp độ. Bởi vậy, NGKT là một trong những nội dung và nhiệm vụ ngày càng có vai trò trọng tâm ưu tiên trong hoạt động ngoại giao của các quốc gia trên thế giới. Ngoại giao Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó.
Theo đường lối ngoại giao Việt Nam hiện đại, NGKT là một trong bốn trụ cột của ngành ngoại giao, có vị trí trung tâm, vai trò tiên phong, là nhiệm vụ xuyên suốt và ngày càng được quan tâm, chú trọng thúc đẩy triển khai quyết liệt, toàn diện nhằm tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Đặc biệt, Đại hội Đảng XIII lần đầu tiên đề ra định hướng “xây dựng nền NGKT phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, phát triển và nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. NGKT là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của nền ngoại giao Việt Nam, một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đóng vai trò tiên phong trong huy động các nguồn lực bên ngoài, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường tiềm lực, sức cạnh tranh và năng lực thích ứng của nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả.
Ông có đánh giá gì về hiệu quả của công tác NGKT do Bộ Ngoại giao triển khai trong thời gian qua?
Ngành Ngoại giao Việt Nam đã sớm xác định đúng và triển khai hiệu quả công tác NGKT để phục vụ đất nước phục hồi sau chiến tranh, góp phần khởi nguồn cho sự nghiệp đổi mới và đạt những thành tựu quan trọng về thương mại, đầu tư, du lịch, phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay của Việt Nam.
Công tác nghiên cứu và NGKT của Bộ Ngoại giao đã có nhiều đóng góp tích cực trong tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế và xu thế phát triển của kinh tế thế giới; nghiên cứu, đề xuất tham mưu cho Đảng và Chính phủ nhiều ý tưởng đột phá về mô hình, và đường lối, chính sách phát triển kinh tế, kiểm soát lạm phát, nợ, mở rộng quan hệ quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước và chính sách đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam; nỗ lực triển khai các chính sách phá bao vây, cấm vận, tìm kiếm các nguồn lực, vận động thu hút đầu tư FDI, viện trợ ODA từ các đối tác phục vụ tái thiết đất nước và góp phần mở ra những thị trường xuất khẩu tiềm năng;
Ngành Ngoại giao cũng chủ động, tích cực thúc đẩy tiến trình hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam; tham mưu chiến lược về sự tham gia và đóng góp tích cực, trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương; hỗ trợ vận động, đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều đối tác then chốt, góp phần mở rộng không gian phát triển, đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu và ngày càng củng cố, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Công tác ngoại giao vaccine đạt kết quả vượt kỳ vọng, đóng góp quan trọng vào thành công của sự chuyển hướng chiến lược trong cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh Covid-19, giúp Việt Nam đi sau, về trước về tiêm chủng và tạo cơ sở quan trọng và có ý nghĩa quyết định để đất nước chuyển sang chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt với dịch bệnh và phục hồi kinh tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân, rút ngắn thời gian phong toả và giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho cộng đồng doanh nghiệp và cả nước.
Từ năm 2022 đến nay, công tác NGKT đã ghi dấu ấn tích cực và đậm nét, cụ thể và thực chất trong thành quả ngoại giao của Việt Nam, với nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế được ký kết. Việt Nam thiết lập các khuôn khổ hợp tác mới mang tính đột phá, như Đối tác kinh tế số-Kinh tế xanh với Singapore, ODA thế hệ mới với Nhật Bản, Đối tác chiến lược về tài chính xanh với Luxembourg, MOU hợp tác với WEF giai đoạn 2023-2026…; Việt Nam ký kết Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với các nước G7 và châu Âu với nguồn đầu tư ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD; thu hút thành công nhiều dự án đầu tư xanh và công nghệ cao; thiết lập các khuôn khổ hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế…
NGKT cũng tích cực đồng hành, hỗ trợ các ngành, lĩnh vực, địa phương và doanh nghiệp mở rộng hợp tác kinh tế, phục hồi du lịch, tham mưu cho Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương về các vấn đề thời sự của kinh tế thế giới, khu vực, giúp các hiệp hội, ngành hàng nắm bắt thông tin thị trường và tham mưu định hướng, giải pháp tháo gỡ khó khăn và mở rộng thị trường xuất khẩu…
NGKT ngày càng tăng tốc, bứt phá cả về lượng và chất, khi mà chỉ trong năm 2022 và 8 tháng đầu năm 2023, Bộ Ngoại giao tổ chức hơn 120 đoàn làm việc tới các địa phương, gần 100 hoạt động kết nối các đối tác quốc tế, doanh nghiệp kiều bào với địa phương, hỗ trợ ký kết hơn 250 văn bản hợp tác quốc tế. Các trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài làm việc với 9 bộ, ngành, trên 100 hiệp hội, doanh nghiệp lớn của Việt Nam để nắm bắt nhu cầu hỗ trợ thúc đẩy hợp tác và tháo gỡ khó khăn. Bộ Ngoại giao đẩy mạnh các hoạt động cập nhật, thông tin cho các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam về các xu thế, quy định mới trong thương mại, đầu tư quốc tế tác động đến xuất khẩu và thu hút đầu tư; tăng cường thông tin thị trường, thẩm tra, xác minh đối tác; tích cực hỗ trợ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại quốc tế.
Về tổng thể, thời gian qua công tác NGKT đã ghi nhận sự chuyển biến mạnh mẽ từ tư duy, nhận thức đến hành động trong các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; NGKT thực sự trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành Ngoại giao và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần đưa kinh tế trở thành nội dung trung tâm trong các hoạt động đối ngoại cấp cao song phương và đa phương; đẩy mạnh và làm sâu sắc quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư với các đối tác; đồng thời, góp phần đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các cơ chế hợp tác đa phương, thúc đẩy triển khai và hỗ trợ thiết lập các khuôn khổ hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế, trong đó có 15 FTA đã ký kết, ký kết FTA với Israel và tiếp tục thúc đẩy đàm phán các FTA với khối EFTA, UAE, Mercosur; mở rộng và nâng cấp danh mục Đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các thành viên Hội đồng bảo an LHQ và với G20; mở rộng quan hệ ngoại giao chính thức của Việt Nam với với 192/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc và quan hệ kinh tế-thương mại với hơn 230 nước, vùng lãnh thổ trên thế giới; đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước lên hơn 732,5 tỷ USD và lũy kế FDI còn hiệu lực đạt 438,7 tỷ USD vào năm 2022…
Tất cả đã và đang giúp các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp mở rộng không gian đa dạng để phát triển, đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, ngày càng củng cố, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm, trong đó có việc nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của NGKT chưa đầy đủ, có lúc, có nơi vẫn còn hiểu chưa đúng về NGKT, chưa tích cực và chủ động trong hợp tác với Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
Đồng thời, NGKT chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước, chưa gắn kết chặt chẽ với ngoại giao về quốc phòng, an ninh, văn hoá – xã hội để tạo thành sức mạnh tổng hợp…
Ngoài ra, còn một số hạn chế về cung cấp thông tin tham mưu chiến lược về tình hình kinh tế thế giới, đối tác, thị trường; về công tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại cũng như về năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao kinh, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế trong thương lượng, đàm phán, vận động; Nhiều Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài chưa làm tốt chức năng phối hợp, hỗ trợ các cơ quan, doanh nghiệp trong nước kịp thời xử lý các tranh chấp kinh tế quốc tế…Việc triển khai công tác NGKT chưa thật sự sáng tạo, nhạy bén, nhất là trong bối cảnh nhiều thách thức nổi lên chưa từng có tiền lệ.
Chúng ta cũng chưa giải quyết dứt điểm những vướng mắc, khó khăn để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp các nước đối tác, thí dụ trong vấn đề cấp thị thực cho doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam; chưa chủ động trong nghiên cứu, tham mưu và đẩy mạnh đổi mới trong triển khai các hoạt động NGKT.
Một cách cụ thể hơn, trong giai đoạn dịch Covid-19 (2020-2022), ngành Ngoại giao đã triển khai công tác NGKT bằng các hoạt động ngoại giao vaccine, thiết bị y tế, nguồn lực tài chính. Còn trong giai đoạn hiện nay, với những biến động về địa chính trị, cách mạng công nghệ thì nguồn lực cần mang về là gì và nên vận động như thế nào?
Quán triệt và bám sát các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc tháng 12/2021, Chỉ thị 15 của Ban Bí thư và Nghị quyết số 21/NQ-CP về Chương trình hành động giai đoạn 2022-2026 của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW, công tác NGKT cần triển khai đồng thời theo ba định hướng lớn sau:
Một là, tiếp tục tranh thủ, phát huy cao nhất thế và lực của đất nước, chủ động, tích cực hơn trong kiến tạo cục diện có lợi cho môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của đất nước; tranh thủ hiệu quả các cơ hội hợp tác đồng thời bảo đảm củng cố thế cân bằng chiến lược, phát triển hài hòa quan hệ với các đối tác.
Hai là, ưu tiên thúc đẩy các động lực tăng trưởng chính như xuất khẩu, đầu tư, du lịch, nông nghiệp… cũng như các động lực tăng trưởng mới về chuyển đổi số, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, đổi mới sáng tạo…
Ba là, tiếp tục quyết liệt cụ thể hóa chủ trương xây dựng nền NGKT phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, nâng cao hiệu quả hỗ trợ các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp trong hợp tác quốc tế.
Công tác NGKT cần tiếp tục tập trung vào nhiệm vụ tham mưu, đóng góp vào duy trì, giữ vững môi trường và cục diện đối ngoại hòa bình, thuận lợi nhất cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước; chuẩn bị và triển khai tốt các hoạt động đối ngoại cấp cao và các cấp, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên phục vụ cho phát triển đất nước; tích cực thúc đẩy các động lực cho tăng trưởng, nâng cao hiệu quả hỗ trợ các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp trong hợp tác kinh tế (thương mại, du lịch, đầu tư); Đồng thời, chủ động nắm bắt nhu cầu hỗ trợ thúc đẩy hợp tác và tháo gỡ khó khăn; hỗ trợ thẩm tra, xác minh, tháo gỡ các vướng mắc của địa phương, doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với nước ngoài và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Ưu tiên thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới (về chuyển đổi số, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, đổi mới sáng tạo…); đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng. Các chủ trương phải đi liền với chính sách ưu đãi cụ thể để thúc đẩy các lĩnh vực này.
NGKT cần tiếp tục trở thành một trọng tâm của các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo cấp cao và hoạt động đối ngoại các cấp; hình thành các khuôn khổ, cơ chế hợp tác trong các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi ích chiến lược trong giai đoạn hiện nay (như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chiến lược; chất bán dẫn, hydrogen, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, nông nghiệp, đào tạo nhân lực chất lượng cao; hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu…).
Củng cố thị trường cho các hàng hóa xuất khẩu chủ lực, các mặt hàng nông sản, rau củ quả đang có tiềm năng phát triển tốt, phát huy hiệu quả các FTA đã ký kết, mở rộng mạng lưới FTA với các đối tác tiềm năng, tiếp tục đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, thâm nhập vào các thị trường mới tiềm năng.
Thúc đẩy thu hút FDI chất lượng cao, tranh thủ vốn ODA và vay ưu đãi, kêu gọi, thúc đẩy, thuyết phục các nhà đầu tư tiếp tục đầu tư, mở rộng vào Việt Nam tập trung vào những lĩnh vực mới nổi như tăng trưởng xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, thúc đẩy du lịch với các chính sách visa, xuất nhập cảnh vừa được sửa đổi, tận dụng tối đa thời cơ du lịch quốc tế đang phục hồi mạnh mẽ; thúc đẩy xuất khẩu lao động trong bối cảnh nhiều nước đang thiếu hụt lực lượng lao động sau dịch Covid-19.
Tóm lại, các sản phẩm của NGKT trong thời gian tới cần tập trung và cụ thể hoá vào kết quả thu hút dòng FDI chất lượng cao vào các ngành công nghệ cao; gia tăng quy mô khách du lịch quốc tế vào Việt Nam; liên tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, gia tăng đơn hàng xuất khẩu cho các ngành dệt may, da giày, thủy sản, gỗ và rau củ quả, bảo đảm lợi ích trước mắt, vừa tính đến lợi ích lâu dài; đẩy nhanh ký kết các FTA, củng cố thị phần hàng hóa Việt Nam trên các thị trường truyền thống và mở rộng các thị trường ngách, thị trường tiềm năng nước ngoài.
Bên cạnh đó, cần sớm tháo gỡ thẻ vàng của EU đối với ngành thuỷ sản Việt Nam; giảm thiểu cả số lượng và thiệt hại từ các vụ kiện và tranh chấp thương mại quốc tế song phương và đa phương; tăng cường thông tin tích cực về hàng xuất khẩu và uy tín Việt Nam; cải thiện cán cân thương mại dịch vụ và thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam; mở rộng các kênh xuất khẩu lao động và duy trì dòng kiều hối của Việt Nam gắn với kiến tạo cục diện có lợi cho môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của đất nước.
Là người chuyên nghiên cứu kinh tế, đặc biệt về thương mại quốc tế và hội nhập, trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, ông có gợi ý đề xuất chính sách, giải pháp gì để triển khai công tác NGKT hoạt động hiệu quả hơn, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta?
Trong thời gian tới, thế giới đứng trước sự cộng hưởng các áp lực về suy giảm kinh tế toàn cầu, lạm phát gia tăng…; đời sống người dân gặp nhiều khó khăn; hậu quả của đại dịch Covid-19 còn kéo dài; cạnh tranh địa chiến lược, chủ nghĩa bảo hộ, phân tách, phân mảnh, thiếu sự liên kết chặt chẽ; các cuộc xung đột đe dọa an ninh lương thực, năng lượng toàn cầu; các nước đang phát triển có khả năng thích ứng và sức chống chịu hạn chế trước những cú sốc từ bên ngoài; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh phức tạp, khó lường.
Ở trong nước, khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi; nền kinh tế có độ mở lớn nhưng quy mô còn khiêm tốn, năng lực cạnh tranh và sức chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài còn hạn chế, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi bối cảnh kinh tế thế giới, khu vực, đặc biệt là các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam đều bị thu hẹp…
Tình hình thay đổi thì chiến lược, chiến thuật phải thay đổi trên tinh thần khẩn trương, chủ động, kịp thời và hiệu quả, vừa giải quyết các vấn đề trước mắt, vừa tính toán các vấn đề chiến lược, lâu dài, ngay cả khi thuận lợi cũng phải tính tới lúc khó khăn. Các cơ quan tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất vì lợi ích quốc gia để hành động, quyết liệt hơn, nỗ lực hơn, làm việc có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt điểm việc đó, tạo đột phá hơn nữa trong công tác NGKT, đóng góp hiệu quả, thực chất cho phát triển kinh tế xã hội đất nước thời gian tới, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.
Nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành trong triển khai NGKT, kết nối chặt chẽ giữa ngành ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp trong nước để triển khai nhiệm vụ NGKT; Đồng thời, chủ động, tích cực mở rộng, làm sâu sắc hơn quan hệ và tạo thế đan xen lợi ích kinh tế với các đối tác; tạo lập, hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác, gắn kết chặt chẽ quan hệ chính trị, đối ngoại với hợp tác kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, giáo dục và khoa học – công nghệ…
Tranh thủ tối đa các quan hệ chính trị đối ngoại để thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế, qua đó củng cố vững chắc quan hệ với các đối tác, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín đất nước. Việc giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế với các đối tác phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, hài hoà với lợi ích hợp pháp, chính đáng của các đối tác.
NGKT cần được đẩy mạnh hơn trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết và phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, sáng tạo, quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả và tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước; nắm chắc tình hình để tham mưu, đề xuất, phát huy tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh; phát huy tinh thần chủ động, tích cực, kịp thời và trách nhiệm cao, phối hợp hiệu quả, tránh đùn đẩy trách nhiệm, linh hoạt phù hợp thực tế và khai thác lợi thế trong quan hệ với mỗi nước…;
Phát huy tinh thần “ngoại giao mang bản sắc cây tre Việt Nam”, tranh thủ hiệu quả các cơ hội hợp tác nhưng đồng thời phải bảo đảm củng cố thế cân bằng chiến lược, phát triển hài hòa quan hệ với các đối tác lớn, các đối tác quan trọng trên tinh thần chân thành, tin cậy, chia sẻ, trách nhiệm, lắng nghe và thấu hiểu; không câu nệ, miễn là có hiệu quả cao nhất. Lấy lợi ích quốc gia – dân tộc, hiệu quả thực chất làm tiêu chí hàng đầu; đề cao đoàn kết quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương (cách tiếp cận toàn cầu); người dân vừa là chủ thể, vừa là trung tâm, là động lực (cách tiếp cận toàn dân)….tiếp tục đưa công tác NGKT thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển đất nước nhanh và bền vững phát huy cao nhất thế và lực của đất nước; chủ động, tích cực hơn trong kiến tạo cục diện có lợi cho môi trường hòa bình, an ninh, phát triển của đất nước.
Đồng thời, NGKT cần hỗ trợ quá trình hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước phù hợp với các cam kết và luật pháp quốc tế; đổi mới, đa dạng hoá phương thức, phát huy vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại – đầu tư; tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đối ngoại trong thẩm định, xử lý vướng mắc trong các dự án quan trọng có yếu tố nước ngoài hoặc nhạy cảm về đối ngoại.
Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, luật pháp và tập quán kinh tế quốc tế, phát hiện các xu hướng, mô hình phát triển mới; nắm chắc, cập nhật kịp thời, hiệu quả thông tin, tình hình kinh tế thế giới; nâng cao năng lực dự báo, tham mưu chiến lược về kinh tế quốc tế để có nguồn thông tin chính xác, chất lượng phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo chiến lược về kinh tế; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân tại các diễn đàn kinh tế đa phương; hoàn thiện các cơ chế phối hợp liên ngành giữa NGKT với ngoại giao văn hoá, quốc phòng – an ninh; giữa song phương và đa phương; giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp trong triển khai NGKT; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ NGKT; sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công tác NGKT trong tình hình mới, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc thù của NGKT.
Đặc biệt, nhiều dự báo quốc tế cập nhật mới đây đều cho rằng kinh tế thế giới năm 2024 có mức tăng dao động từ 1,9% – 2,5% GDP, tức thấp hơn cả năm 2023 và lạm phát toàn cầu có thể giảm từ mức 6,8% năm 2023 xuống còn 5,2% năm 2024. Các hạn chế thương mại và bất ổn chính trị tiếp tục là các rào cản lớn nhất đối với sự phân luồng hàng hóa năng lượng và lương thực trên toàn cầu. Triển vọng tăng trưởng toàn cầu vẫn còn đó nhiều thách thức nan giải, xen lẫn những bài toán mới liên tục xuất hiện. Những hoạt động hợp tác trong các lĩnh vực quan trọng có thể giảm thiểu rủi ro và thúc đẩy một cuộc phục hồi toàn cầu mạnh mẽ, bền vững và có tính bao trùm. Với những cải cách chủ động, những vết sẹo kéo dài từ những cú sốc của những năm gần đây có thể được kiểm soát, giúp nâng cao triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới, cũng như viễn cảnh hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia…
Bởi vậy, NGKT cần chú ý hành động theo tinh thần của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Dọc ngang thông suốt”; từ đó, như lời Thủ tướng Phạm Minh Chính, luôn thích ứng, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, hành động có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, “biến nguy thành cơ”, “Đã nói là phải làm-Đã cam kết là phải thực hiện- Đã thực hiện là phải có hiệu quả”, chủ động củng cố các khung hợp tác đa phương để đạt được tiến bộ trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu chung, nhằm tránh tình trạng phân mảnh kinh tế thế giới nghiêm trọng hơn và bất lợi cho mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam; phục vụ đắc lực cho phục hồi và phát triển bền vững đất nước cả trong quá khứ, hiện tại và trong tương lai.
Xin cảm ơn ông!
Hải An