Bối cảnh quốc tế, khu vực và những vấn đề đặt ra đối với phát triển Vùng đồng bằng Sông Cửu longNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

0
36
Trong bối cảnh đã có trên 81 triệu ca nhiễm virus SARS-CoV-2 trên toàn cầu và số ca nhiễm mới mỗi ngày lên đến con số hàng trăm nghìn, kinh tế thế giới vẫn cần thêm thời gian mới có thể thoát khỏi hố sâu suy thoái để phục hồi.

Là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất Việt Nam, lại có vị trí chiến lược trong kết nối giao thương với các nước ASEAN và tiểu vùng sông Mê Công, vùng đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng trong an ninh và phát triển của đất nước. Sau 18 năm triển khai các phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long được Bộ Chính trị đề ra tại Nghị quyết số 21-NQ/ TW ngày 20/01/2003 và Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012, bộ mặt và vị thế của vùng đã có những thay đổi rõ rệt trên mọi phương diện, từ kinh tế – văn hóa – xã hội đến quốc phòng – an ninh. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch, kết cấu hạ tầng – xã hội phát triển tích cực, cuộc sống người dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ đói nghèo giảm đáng kể, y tế – giáo dục không ngừng được cải thiện. Bên cạnh đó, quốc phòng – an ninh được đảm bảo vững chắc, biên giới quốc gia được củng cố. Đặc biệt, hoạt động hợp tác, giao lưu của các địa phương trong vùng với Campuchia và các nước láng giềng ngày càng đa dạng và đi vào chiều sâu, góp phần duy trì một môi trường hòa bình, hữu nghị và ổn định cho phát triển của vùng và của cả nước. Những thành tựu quan trọng nêu trên có được là nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đúng đắn đề ra tại Nghị quyết số 21-NQ/ TW và Kết luận số 28-KL/TW, và đặc biệt là nhờ sự nỗ lực không ngừng của các cấp, các ngành và người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.

  1. Bối cảnh quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long:

Với những tiềm năng, thế mạnh của mình, vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều dư địa để phát triển. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, tăng trưởng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, năng suất và sức cạnh tranh chưa cao, chưa phát huy được hết các lợi thế của vùng. Cơ cấu kinh tế tuy có chuyển dịch nhưng chưa bền vững, mức sống của người dân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của cả nước. Trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, nhận thức và triển khai công tác hội nhập quốc tế ở một số địa phương tiếp tục có chuyển biến tích cực, nhiều địa phương trên cơ sở chương trình hành động triển khai Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế đã xây dựng chiến lược thực hiện có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình rõ ràng. Tuy nhiên, tại không ít địa phương, kế hoạch còn chung chung, chưa xác định được đối tác cụ thể, lĩnh vực ưu tiên; việc đổi mới thể chế, nâng cao năng lực địa phương chưa được quan tâm đúng mức so với kỳ vọng hội nhập; nguồn lực làm công tác đối ngoại tại địa phương còn hạn chế nên hiệu quả triển khai chưa cao, khó tạo ra bước chuyển lớn như mong muốn. Bên cạnh đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đối mặt với không ít khó khăn thách thức từ biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, nước biển dâng… Cùng với những vấn đề nêu trên, bối cảnh thế giới, khu vực và yêu cầu phát triển của nước ta trong những năm tới đang đặt ra những thách thức, yêu cầu mới đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long.

2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

Trong 10 năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, tác động nhiều chiều đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước nói chung và khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Cơ hội có thể nhiều hơn, song thách thức cũng không nhỏ.

Thứ nhất, mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng đứng trước nhiều thách thức. Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn có nhiều thay đổi, đáng chú ý là sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc[1]; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, từ địa – chiến lược cho đến kinh tế – thương mại, và đặc biệt là cạnh tranh công nghệ. Điều này một mặt tạo sức ép lớn hơn cho các nước vừa và nhỏ như Việt Nam, mặt khác cũng là cơ hội cho ta tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, thúc đẩy hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực từ các đối tác cho phát triển đất nước. Trong bối cảnh đó, khu vực tiểu vùng Mê Công, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long, đang ngày càng nhận được sự quan tâm, can dự của Mỹ và các đồng minh, thể hiện rõ trong chiến lược, chính sách gần đây của các nước này đối với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trong khi đó, Trung Quốc đẩy nhanh thể chế hóa hợp tác Mê Công – Lan Thương (MLC), tăng cường vai trò dẫn dắt trong các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công, thúc đẩy hiện diện quân sự tại khu vực. Nếu xu hướng này tiếp diễn, không loại trừ khả năng Mê Công sẽ trở thành địa bàn cạnh tranh chiến lược mới giữa các nước lớn ở khu vực, tạo hệ lụy phức tạp đối với việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ hai, kinh tế thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến những chuyển đổi quan trọng trong quá trình “đại tái thiết” (great reset). Đặc biệt cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và chuyển đổi số được đẩy nhanh dưới tác động của dịch Covid-19 sẽ tiếp tục làm thay đổi căn bản lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, phương thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội. Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế quốc tế đứng trước nhu cầu phải điều chỉnh theo hướng bền vững, bao trùm hơn; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh sẽ là xu thế phát triển trong 10 năm tới. Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh, các nước gia tăng tự chủ chiến lược về kinh tế, nhất là trong các lĩnh vực sản xuất thiết yếu, thúc đẩy dịch chuyển và đa dạng hóa các chuỗi cung ứng theo hướng bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Làn sóng đổi mới, sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực là cơ hội để Việt Nam vươn lên, bứt phá, giữ vị trí cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong bối cảnh đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là 4 địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long (gồm Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau) có nhiều cơ hội để thu hút vốn đầu tư, khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ số; phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu…; đồng thời cũng phải đối mặt với các thách thức tụt hậu về số, khoảng cách số, cũng như các vấn đề về đào tạo kĩ năng và việc làm…

Thứ ba, các vấn đề an ninh toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh nguồn nước, an ninh mạng… ngày càng trở nên nguy hiểm và khó kiểm soát hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các nước. Điều này mở ra cơ hội để thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm đối phó với các vấn đề trên. Trong bối cảnh các thể chế đa phương truyền thống đứng trước nhiều khó khăn, các hình thức tập hợp lực lượng, mô hình hợp tác mới, linh hoạt, trong đó có hợp tác nhiều bên, hợp tác tiểu vùng… sẽ được các nước coi trọng, thúc đẩy. Đây là cơ hội để ta cùng các nước tiểu vùng Mê Công phát huy tính chủ động, sáng tạo, hợp tác cùng giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống đan xen phức tạp như an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng…, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển bền vững khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ tư, đại dịch Covid-19 sẽ tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội của các nước, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Theo đánh giá, các quốc gia bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 sẽ phải mất nhiều năm để có thể khôi phục hoàn toàn. Trong bối cảnh đó, các nước phát triển có xu hướng tiếp tục điều chỉnh chính sách theo hướng cắt giảm nguồn ODA và vốn ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nhất là khi Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đang phấn đấu để đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Thực trạng trên đặt ra thách thức không nhỏ đối với các địa phương trên cả nước nói chung, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng trong việc thu hút các nguồn lực cho phát triển.

 2.2. Những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của vùng

Như đã phân tích ở trên, các diễn biến của tình hình thế giới và khu vực có tác động nhiều chiều đến an ninh và phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long là làm sao để phát huy tối đa những tiềm năng, thế mạnh, tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức để phát triển bền vững, đạt mục tiêu trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, mang lại cuộc sống ổn định, khá giả cho người dân, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước.

     Thứ nhất, đồng bằng sông Cửu Long có vị trị địa chính trị, địa kinh tế quan trọng, nằm ở cực Nam của Việt Nam, dọc Hành lang kinh tế phía Nam của Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng giúp kết nối Việt Nam với Campuchia và Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long có vùng biển rộng lớn, gần các tuyến hàng hải chính và kết nối với phần còn lại của khu vực Đông Nam Á và với thế giới. Do vậy, cần định vị đồng bằng sông Cửu Long với một tầm nhìn rộng lớn và dài hạn hơn. Cụ thể, bên cạnh gắn kết đồng bằng sông Cửu Long với đầu tàu phát triển của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh cũng như với các vùng và địa phương trên cả nước, cần quan tâm hơn đến việc gắn kết vùng với các nước, các địa phương khu vực tiểu vùng sông Mê Công. Các quy hoạch phát triển của vùng và các địa phương trong vùng cần được đặt trong tổng thể chung, gắn kết chặt chẽ với định hướng phát triển của cả tiểu vùng Mê Công. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao vai trò, vị thế và phát huy các lợi thế chiến lược của vùng, thúc đẩy hội nhập, hòa bình, hợp tác và phát triển với các nước trong khu vực, cũng như tranh thủ nguồn lực từ các đối tác và hạn chế những hệ lụy phức tạp từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.

      Thứ hai, qua 18 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ-TW, những thế mạnh cũng như điểm nghẽn trong phát triển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã bộc lộ rõ. Để thực sự bứt phá, bắt kịp với những biến chuyển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, yêu cầu bức thiết là phải có những giải pháp hiệu quả nhằm phát huy tối đa thế mạnh và khơi thông những điểm nghẽn này. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội đồng bằng sông Cửu Long, mang lại những thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù vậy, những điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng, giao thông, chất lượng nguồn nhân lực, cơ chế liên kết, điều phối vùng cần được xem xét thấu đáo để có những giải pháp mang tính đột phá, khơi thông, mở đường nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ ba, nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia. Do đó, việc tăng cường quan hệ giữa các địa phương giáp biên có vai trò quan trọng trong thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam – Campuchia, góp phần đảm bảo vững chắc an ninh biên giới phía Tây và Tây Nam. Vì vậy, bên cạnh các lĩnh vực ưu tiên và có thế mạnh như nông nghiệp, kinh tế biển, năng lượng tái tạo…, các địa phương trong vùng cần tiếp tục quan tâm hơn nữa đến phát triển kinh tế vùng biên, nâng cao đời sống, tăng cường sự hiểu biết, giao lưu, gắn bó giữa nhân dân các tỉnh biên giới hai nước Việt Nam – Campuchia, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của vùng và của cả nước.

     Thứ tư, khu vực đồng bằng sông Cửu Long là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Theo đánh giá của Ủy hội sông Mê Công quốc tế, nước biển dâng dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn tại lưu vực sông Mê Công sẽ gây hại cho nông nghiệp, thủy sản, đánh bắt cá và khiến hàng triệu người phải sơ tán. Do đó, ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề sống còn đối với sự phát triển bền vững của đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, mọi chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển của vùng cần phải quan tâm thấu đáo đến vấn đề biến đổi khí hậu. Đây cũng là lĩnh vực được các đối tác phát triển quan tâm, dành nhiều hỗ trợ kỹ thuật, tài chính cho vùng trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh các nước phát triển có xu hướng tiếp tục điều chỉnh chính sách theo hướng cắt giảm nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thách thức càng gia tăng, đòi hỏi các địa phương phải tích cực, sáng tạo và linh hoạt hơn trong tìm kiếm, huy động các nguồn lực để phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu…..(còn nữa).

Phương Ly

[1] Năm 2019, tổng GDP của Trung Quốc tương đương khoảng 67% GDP của Mỹ, năm 2020 khoảng 70%, dự báo năm 2021 tương đương 75%, và vượt Mỹ về quy mô GDP vào năm 2028.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here