BỔI CẢNH QUỐC TẾ, KHU VỰC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (tiếp theo)

0
47

 2.2. Những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của vùng

     Như đã phân tích ở trên, các diễn biến của tình hình thế giới và khu vực có tác động nhiều chiều đến an ninh và phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long là làm sao để phát huy tối đa những tiềm năng, thế mạnh, tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức để phát triển bền vững, đạt mục tiêu trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, mang lại cuộc sống ổn định, khá giả cho người dân, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước.

     Thứ nhất, đồng bằng sông Cửu Long có vị trị địa chính trị, địa kinh tế quan trọng, nằm ở cực Nam của Việt Nam, dọc Hành lang kinh tế phía Nam của Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng giúp kết nối Việt Nam với Campuchia và Thái Lan. Đồng bằng sông Cửu Long có vùng biển rộng lớn, gần các tuyến hàng hải chính và kết nối với phần còn lại của khu vực Đông Nam Á và với thế giới. Do vậy, cần định vị đồng bằng sông Cửu Long với một tầm nhìn rộng lớn và dài hạn hơn. Cụ thể, bên cạnh gắn kết đồng bằng sông Cửu Long với đầu tàu phát triển của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh cũng như với các vùng và địa phương trên cả nước, cần quan tâm hơn đến việc gắn kết vùng với các nước, các địa phương khu vực tiểu vùng sông Mê Công. Các quy hoạch phát triển của vùng và các địa phương trong vùng cần được đặt trong tổng thể chung, gắn kết chặt chẽ với định hướng phát triển của cả tiểu vùng Mê Công. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao vai trò, vị thế và phát huy các lợi thế chiến lược của vùng, thúc đẩy hội nhập, hòa bình, hợp tác và phát triển với các nước trong khu vực, cũng như tranh thủ nguồn lực từ các đối tác và hạn chế những hệ lụy phức tạp từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.

      Thứ hai, qua 18 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ-TW, những thế mạnh cũng như điểm nghẽn trong phát triển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã bộc lộ rõ. Để thực sự bứt phá, bắt kịp với những biến chuyển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, yêu cầu bức thiết là phải có những giải pháp hiệu quả nhằm phát huy tối đa thế mạnh và khơi thông những điểm nghẽn này. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội đồng bằng sông Cửu Long, mang lại những thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mặc dù vậy, những điểm nghẽn về cơ sở hạ tầng, giao thông, chất lượng nguồn nhân lực, cơ chế liên kết, điều phối vùng cần được xem xét thấu đáo để có những giải pháp mang tính đột phá, khơi thông, mở đường nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ ba, nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia. Do đó, việc tăng cường quan hệ giữa các địa phương giáp biên có vai trò quan trọng trong thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam – Campuchia, góp phần đảm bảo vững chắc an ninh biên giới phía Tây và Tây Nam. Vì vậy, bên cạnh các lĩnh vực ưu tiên và có thế mạnh như nông nghiệp, kinh tế biển, năng lượng tái tạo…, các địa phương trong vùng cần tiếp tục quan tâm hơn nữa đến phát triển kinh tế vùng biên, nâng cao đời sống, tăng cường sự hiểu biết, giao lưu, gắn bó giữa nhân dân các tỉnh biên giới hai nước Việt Nam – Campuchia, qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của vùng và của cả nước.

     Thứ tư, khu vực đồng bằng sông Cửu Long là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Theo đánh giá của Ủy hội sông Mê Công quốc tế, nước biển dâng dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn tại lưu vực sông Mê Công sẽ gây hại cho nông nghiệp, thủy sản, đánh bắt cá và khiến hàng triệu người phải sơ tán. Do đó, ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề sống còn đối với sự phát triển bền vững của đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, mọi chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển của vùng cần phải quan tâm thấu đáo đến vấn đề biến đổi khí hậu. Đây cũng là lĩnh vực được các đối tác phát triển quan tâm, dành nhiều hỗ trợ kỹ thuật, tài chính cho vùng trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh các nước phát triển có xu hướng tiếp tục điều chỉnh chính sách theo hướng cắt giảm nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thách thức càng gia tăng, đòi hỏi các địa phương phải tích cực, sáng tạo và linh hoạt hơn trong tìm kiếm, huy động các nguồn lực để phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu.

  1. Một số nhiệm vụ, giải pháp về đối ngoại nhằm phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long

     Trong thời gian qua, Bộ Ngoại giao cũng đã nỗ lực cùng với các cấp, các ngành, đóng góp sức mình cho sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhận thức được tầm quan trọng của vùng trong an ninh-phát triển đất nước, Bộ Ngoại giao luôn xác định đây là một khu vực ưu tiên trong triển khai công tác đối ngoại nói chung và công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nói riêng. Lãnh đạo Bộ Ngoại giao thường xuyên có các chuyến công tác đến các địa phương trong vùng để trao đổi, nắm bắt thực tiễn, nhu cầu phát triển đối ngoại địa phương; kịp thời tư vấn, hỗ trợ địa phương trong triển khai công tác đối ngoại. Để tiếp tục tạo động lực, đưa vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển thịnh vượng, bền vững, xứng đáng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của cả nước, một số giải pháp đề xuất bao gồm:

3.1. Về kinh tế, chính trị đối ngoại và thu hút nguồn lực cho phát triển:

     – Tăng cường giao lưu, gắn kết giữa các tỉnh có chung đường biên giới. Tăng cường kết nối đường bộ và hạ tầng thương mại biên giới, theo đó sớm Hiệp định Thương mại biên giới Việt Nam – Campuchia nhằm tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ biên mậu giữa các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh của Campuchia phát triển; thúc đẩy hoàn thành và thực hiện đề án “Quy hoạch tổng thể kết nối hai nền kinh tế Việt Nam – Campuchia đến 2030″.

     – Đẩy mạnh và nâng tầm ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, công tác ngoại vụ địa phương trên cơ sở bám sát các nhu cầu của các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long; chú trọng hướng đi mới, cách làm mới, nhất là hỗ trợ các doanh nghiệp hợp tác chuyển đổi số, đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh ngoại giao tập đoàn, kết nối với các công ty công nghệ lớn; tăng cường kết nối, mở rộng thị trường cho các sản phẩm đặc thù, thế mạnh của vùng.

     – Chủ động, tích cực vận động nguồn lực hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các đối tác phát triển, các tổ chức và các tập đoàn kinh tế, tài chính quốc tế cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt trong các lĩnh vực thế mạnh cũng như giải quyết điểm nghẽn của vùng như úng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, cải thiện kết cấu và cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…

     – Thúc đẩy quảng bá du lịch, thu hút đầu tư cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long; kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; đẩy mạnh hợp tác du lịch với các nước Mê Công và ASEAN, chú trọng tính kết nối, liên thông và bền vững.

     – Tiếp tục vận động nguồn hỗ trợ vắc-xin và vật tư, thiết bị y tế; hỗ trợ thúc đẩy cơ hội hợp tác sản xuất, chuyển giao công nghệ về vắc xin, góp phần đẩy lùi dịch bệnh, tạo điều kiện cho phục hồi kinh tế ở khu vực bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung.

3.2. Về công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa:

     – Các địa phương trong khu vực phối hợp với Bộ Ngoại giao tham gia và tổ chức các chương trình ngoại giao văn hóa thường niên như: “Tuần/Ngày Việt Nam ở nước ngoài”, “Ngày ẩm thực Việt Nam ở nước ngoài”, “Ngày tìm hiều về Việt Nam” nhằm quảng bá các nét văn hóa đặc sắc truyền thống của địa phương với bạn bè quốc tế; tạo điều kiện khai thác tiềm năng du lịch, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa; tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương.

     – Tiếp tục triển khai Chiến lược Ngoại giao văn hóa, xác định Ngoại giao văn hóa là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, là một bộ phận quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Năm nhiệm vụ lớn của ngoại giao văn hóa bao gồm: (i) thúc đẩy quan hệ với các quốc gia, khu vực, các tổ chức quốc tế; (ii) xúc tiến, tăng cường và làm sâu sắc hiểu biết với các nước; (iii) quảng bá và lan tỏa hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam trên trường quốc tế; (iv) vận động và phát huy các danh hiệu, di sản Việt Nam được quốc tế công nhận; và (v) tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm văn hóa dân tộc.

     – Tích cực tham gia mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam và quốc tế để có cơ hội trao đổi thông tin, kinh nghiệm về công tác quản lý, khai thác, bảo tồn và phát huy tốt danh hiệu UNESCO. Huy động nguồn lực để duy trì các hoạt động bảo tồn và phát triển bền vững khu di tích sinh quyển; lồng ghép các chương trình hoạt động, kế hoạch phát triển khu di tích sinh quyển với các chương trình, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng tăng trưởng xanh bền vững, theo phương châm “bảo tồn cho phát triển và phát triển cho bảo tồn”.

     – Với các địa phương đã có những danh hiệu di sản khu vực và thế giới cần chủ động, tích cực trao đổi thông tin, kinh nghiệm về công tác quản lý, khai thác, bảo tồn và phát huy tốt danh hiệu quốc tế, cần lưu ý cân bằng công tác bảo tồn và phát triển và gắn việc bảo tồn di sản với phát triển bền vững của địa phương. Thực hiện các cam kết và quy định của UNESCO đối với những di sản được UNESCO công nhận.

3.3. Về công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại:

    – Tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong công tác phát ngôn và đấu tranh dư luận, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long được dư luận quan tâm, trong đó có các vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo.

     – Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thông tin đối ngoại, đẩy mạnh truyền thông số, sử dụng mạng xã hội và các phương thức truyền thông mới, hiện đại trong việc cung cấp thông tin và quảng bá, tăng hiệu ứng tuyên truyền trong và ngoài nước.

3.4. Về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài:

    – Xây dựng và triển khai kịp thời các chính sách, quy định pháp luật đối với người Việt Nam ở nước ngoài, có chế độ đãi ngộ, hỗ trợ phù hợp nhằm thu hút chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về làm việc tại vùng; cải cách các thủ tục hành chính, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng ứng dụng công nghệ mới, cải thiện môi trường đầu tư và có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về đầu tư tại quê hương.

     – Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu về doanh nhân và trí thức kiều bào gốc địa phương để tăng cường công tác vận động, thu hút nguồn lực đóng góp phát triển của địa phương.

3.5. Về công tác biên giới, lãnh thổ:

     – Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ đường biên giới theo Điều 12 Nghị đinh thư Phân giới cắm mốc ký năm 2019, theo đó, tại các đoạn biên giới đã hoàn thành phân giới cắm mốc, căn cứ vào đường biên giới được mô tả tại Điều 9 của Nghị định thư như thể hiện trên bộ Bản đồ địa hình biên giới tỷ lệ 1/25.000 đính kèm để tiến hành công tác quản lý, bảo vệ đường biên giới, mốc biên giới. Đối với những đoạn biên giới chưa hoàn thành phân giới cắm mốc, việc quản lý đường biên giới sẽ được tiếp tục thực hiện theo Khoản 5 Điều III Hiệp ước 2005.

     – Tiếp tục đàm phán với Campuchia để từng bước giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới giữa hai nước, trong đó, trước mắt là thực hiện phân giới cắm mốc nốt khoảng 16% đường biên giới còn tồn đọng; xây dựng cơ sở dữ liệu biên giới quốc gia Việt Nam – Campuchia.

     – Đàm phán, ký kết Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu và Hiệp định về quy chế quản lý biên giới mới thay thế Hiệp định Quy chế biên giới Việt Nam – Campuchia ký năm 1983.

     – Xây dựng hợp phần Quy hoạch hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; triển khai công tác mở, nâng cấp hệ thống cửa khẩu biên giới theo quy hoạch được duyệt nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh các địa phương biên giới, vùng và cả nước.

     Cùng với sự chung tay đồng lòng của các cấp, các ngành và nỗ lực của chính quyền và người dân đồng bằng sông Cửu Long, việc triển khai hiệu quả những giải pháp nêu trên sẽ góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đưa vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển thịnh vượng, bền vững, xứng đáng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của cả nước./.

Phương Ly

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here